|
Đô đốc Harry B. Harris, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ (Ảnh tư liệu) |
Tờ Quan sát quân sự Nga ngày 5/1 đăng bài viết "Triển khai tàng hình cơ Raptor ở bắc Australia phù hợp với kế hoạch nhằm vào Trung Quốc của Donald Trump" của tác giả Yevgeny.
Theo bài viết, thời điểm này cách ông Donald Trump bước vào Nhà Trắng và ông Barack Obama rời nhiệm sở chỉ còn nửa tháng. Thân tín của Tân Tổng thống đã đưa ra phản ứng đầu tiên quyết liệt gây chú ý đối với các biện pháp ngoại giao mới nhất của chính quyền Barack Obama.
Chẳng hạn, ngày 30/12/2016, Kellyanne Conway, Cố vấn Tân Tổng thống cho rằng ông Barack Obama phê chuẩn đợt trừng phạt mới đối với Nga là có ý đồ ép ông Donald Trump vào "góc tường".
Thái độ này đã khách quan phản ánh xuất hiện bầu không khí "ngột ngạt" trong quan hệ Nga - Mỹ hiện nay.
"Tập đoàn thượng tầng" mới ở Washington chắc chắn sẽ nói tốt hơn về quan hệ với Moscow, nhưng quan điểm của Mỹ trong các vấn đề địa-chiến lược quan trọng sẽ không có sự thay đổi căn bản.
Ông Donald Trump có "sự xung khắc sâu sắc" với Trung Quốc. Một bài viết đăng trên trang tin quân sự Nga ngày 16/12/2016 đã xác nhận điểm này.
Trang tin này dẫn lời Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Quân đội Mỹ, Đô đốc Harry Harris cho biết: "Để chống lại các bước đi chính trị, quân sự của Bắc Kinh", năm 2017, Mỹ sẽ triển khai máy bay chiến đấu tàng hình F-22 Raptor ở một căn cứ không quân của Australia.
Đô đốc Harry Harris chỉ ra, sau khi ông Donald Trump lên nắm quyền, Washington sẽ tiếp tục thực hiện chính sách ngăn chặn cứng rắn đối với Trung Quốc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều này cho thấy, Mỹ có ý đồ tăng cường can dự vào tranh chấp Biển Đông và biển Hoa Đông giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.
Thông tin này thực sự đã thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận. Người đưa ra thông tin này là Đô đốc Harry Harris,quan chức hoàn toàn không liên quan trực tiếp đến Không quân Mỹ.
Có điều, thông tin này đã phản ánh được quy mô của các hành động ngăn chặn chiến dịch, chiến lược do Lầu Năm Góc xác định. Khi đó, Mỹ sẽ sử dụng vài hạm đội tác chiến của Hải quân Mỹ (hạm đội 3, 5 và 7) và nhiều phi đội đường không chiến thuật và chiến lược của Không quân Mỹ.
Đồng thời, Hải Không quân Mỹ sẽ phối hợp với nhau, triển khai hành động liên hợp với các đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương. Sở chỉ huy rất có khả năng sẽ là các căn cứ hải quân Mỹ có ưu thế chiến dịch, chiến thuật cách xa Trung Quốc, được bố trí ở Guam, Hawaii và Australia. Đô đốc Harry Harris đương nhiên không đề cập đến những chi tiết này.
Ngay từ đầu năm 2016 Mỹ đã bắt đầu tiến hành "quân sự hóa" khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Khi đó, người phát ngôn Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương Mỹ chỉ trích Trung Quốc ở khu vực này, tuyên bố Mỹ sẽ triển khai máy bay ném bom chiến lược B-1B Lancer ở căn cứ không quân Tyndall, Australia.
Ngoài ra, có tin cho biết Quân đội Mỹ sẽ còn điều máy bay tiếp dầu trên không KC-10A Extender Tanker tới căn cứ không quân ở Australia để kéo dài thời gian trực ban chiến đấu khu vực gần với Trung Quốc.
Tất cả những điều này có nghĩa là Hải Không quân Mỹ đang hình thành các cụm tấn công chiến lược mạnh ở Australia và Thái Bình Dương. Các cụm này có khả năng dưới đây:
- Sử dụng tên lửa chống hạm tầm xa trang bị cho máy bay ném bom chiến lược B-1B tiến hành tấn công sát thương đối với tất cả các cụm tất công tàu sân bay/tàu chiến hiện có của đối thủ tiềm tàng.
- Sử dụng tên lửa hành trình tầm xa tàng hình AGM-158B tiến hành tấn công tập trung đối với các cơ sở công nghiệp quân sự trên đất liền và các công trình hạ tầng cơ sở chiến lược khác của đối phương mạnh.
- Dựa vào máy bay chiến đấu tàng hình F-22 Raptor và tên lửa phòng không SM-6 trên tàu chiến để thu hẹp phạm vi chống can thiệp/chống tiếp cận khu vực của các máy bay chiến thuật và chiến lược của đối thủ.
- Dựa vào máy bay chiến đấu F-22 Raptor, tiến hành trực chiến hộ tống cho máy bay ném bom chiến lược B-1B ở khu vực lân cận biên giới nước đối thủ.
Theo bài viết, máy bay tiếp dầu trên không KC-10A là nhân tố quan trọng, bởi vì căn cứ không quân Tyndall cách khu vực Biển Đông khoảng 4.000 km, máy bay chiến đấu F-22 tiến hành tác chiến ở cự ly xa như vậy ít nhất cần tiến hành tiếp dầu 4 - 5 lần, đồng thời còn lắp 2 thùng dầu phụ 2.270 lít.
Tại sao không thể triển khai máy bay Raptor ở sân bay quân sự Philippines hoặc căn cứ không quân Anderson ở Guam để giảm thời gian bay đến Biển Đông và biển Hoa Đông?
Nguyên nhân rất đơn giản - những căn cứ chiến lược này đều nằm trong phạm vi bắn của tên lửa đạn đạo tầm trung Đông Phong-21A/D. Lực lượng tên lửa Trung Quốc có hơn 100 tên lửa như vậy.
Các máy bay chiến đấu F-22 Raptor và các máy bay khác triển khai ở căn cứ Tyndall có thể tiến hành bảo đảm an ninh cần thiết trong nhiều năm tới. Căn cứ này sẽ có vùng phòng không rộng lớn dài 3.000 km (từ biển Arafura và biển Timor đến Biển Đông), có thể xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa khu vực mạnh theo hình thang ở trong đó.
Hệ thống này sẽ bao gồm vài tàu khu trục Aegis và radar đa chức năng nổi SBX, có thể đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung ở giai đoạn đầu hoặc đoạn cuối khi bay.
Ngoài ra, một khi máy bay ném bom H-6K "đột nhập" khu vực thuộc phạm vi bắn của tên lửa CJ-10A (lắp trên H-6K) đối với căn cứ Tyndall, so với triển khai ở Okinawa hoặc Philippines, lực lượng đường không trên tàu sân bay Mỹ sẽ có nhiều thời gian hơn để đánh chặn loại tên lửa hành trình này.
Căn cứ không quân Tyndall là căn cứ khiến cho Trung Quốc rất đau đầu và nguy hiểm. Đối với Mỹ, tác dụng của nó ngày càng lớn. Vì vậy có thể dự đoán, tình hình châu Á - Thái Bình Dương sẽ xuất hiện một "đợt nóng" mới.