|
Chiến đấu cơ F-35 phiên bản hải quân Mỹ thử nghiệm hạ cánh trên tàu sân bay |
Quân đội Mỹ đã bắt đầu chiến lược “xoay trục” sang Châu Á. Đến năm 2020, hải quân và không quân dự kiến bố trí 60% lực lượng của mình ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong khi đó, Lầu Năm Góc đang đầu tư một phần ngày càng tăng các nguồn lực vào máy bay ném bom tầm xa mới và tàu ngầm năng lượng hạt nhân được thiết kế để hoạt động trong các môi trường có mức độ đe dọa cao.
Trung Quốc bắt nạt
Những sự thay đổi này rõ ràng nhằm ngăn chặn một Trung Quốc ngày càng quyết đoán. Và với một lý do chính đáng: các tuyên bố chủ quyền (phi pháp) ngày càng quá quắt của Bắc Kinh đe dọa gần như mọi quốc gia nằm dọc “chuỗi đảo thứ nhất”, bao gồm các khu vực của Nhật Bản, Philippines và Đài Loan – tất cả các khu vực mà Washington có nghĩa vụ phải bảo vệ.
Nhưng để ngăn chặn sự gây hấn của Trung Quốc, Lầu Năm Góc thậm chí sẽ phải đi xa hơn nữa. Các năng lực đang nổi lên của Trung Quốc nhằm làm suy giảm khả năng Washington đem lại sự trợ giúp quân sự cho các đồng minh và đối tác của Mỹ. Mặc dù răn đe thông qua viễn cảnh trừng phạt, dưới hình thức không kích và bao vây hải quân, có một vai trò trong việc ngăn cản chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc, mục tiêu của Washington, và cũng là mục tiêu của các đồng minh và đối tác của Washington, hẳn sẽ là răn đe thông qua ngăn chặn để thuyết phục Bắc Kinh rằng họ đơn giản không thể đạt được các mục tiêu của mình bằng vũ lực.
Tận dụng khả năng tiềm tàng của các lực lượng mặt đất của Mỹ cùng đồng minh và đối tác, Washington tốt nhất có thể đạt được mục tiêu này bằng cách thiết lập một loạt phòng tuyến liên kết dọc theo chuỗi đảo thứ nhất – một tuyến “phòng thủ quần đảo”, và bằng cách làm như vậy, ngăn chặn khả năng Bắc Kinh đạt được các mục tiêu theo chủ nghĩa xét lại của mình bằng cách gây hấn hoặc ép buộc.
Trung Quốc tuyên bố rằng sự trỗi dậy của nước này là hòa bình, nhưng các hành động của họ lại kể một câu chuyện khác biệt: câu chuyện của một cường quốc theo chủ nghĩa xét lại đang tìm cách thống trị Tây Thái Bình Dương. Bắc Kinh đã tuyên bố chủ quyền không chỉ đối với Đài Loan mà còn cả quần đảo Senkaku của Nhật Bản (Trung Quốc gọi là đảo Điếu Ngư) và phần lớn trong 1,7 triệu km2 biển Hoa Đông và Biển Đông, mà ở đó 6 quốc gia khác vẫn duy trì các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và biển khác nhau. Và Trung Quốc đã không biện hộ cho việc theo đuổi các mục tiêu này. Chẳng hạn, năm 2010, Bộ trưởng Ngoại giao khi đó của Trung Quốc là ông Dương Khiết Trì, đã thẳng thừng tuyên bố về tham vọng của Bắc Kinh khi nói rằng: “Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và đó là thực tế”.
Hãy xem xét những hành động bắt nạt gần đây của Bắc Kinh ở Biển Đông. Vào tháng 3/2014, các tàu hải cảnh của Trung Quốc đã ngăn không cho các tàu của Philippines tiếp cận tiền đồn của nước này trên quần đảo Trường Sa. Hai tháng sau, Trung Quốc đã di chuyển một giàn khoan vào Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, đụng độ với các tàu đánh cá của Việt Nam. Các động thái này đã lặp lại các sự cố trước đó ở biển Hoa Đông. Vào tháng 9/2010, như là một sự trừng phạt dành cho việc bắt giữ thuyền trưởng của một tàu cá của Trung Quốc – người đã lái tàu đâm vào hai tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản, Trung Quốc đã tạm thời cắt đứt xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản, thành phần thiết yếu để sản xuất điện thoại di động và máy tính.
Và đến tháng 11/2013, Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố một “vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ), buộc phải tuân thủ các quy định giao thông hàng không của nước này, đối với quần đảo Senkaku có tranh chấp và các khu vực khác của biển Hoa Đông, cảnh báo rằng nước này sẽ có hành động quân sự nhằm vào các máy bay từ chối tuân thủ.
Chống tiếp cận và chiến lược phong tỏa
Một số người cho rằng khi quân đội của Trung Quốc lớn mạnh hơn và các nhà lãnh đạo của nước này cảm thấy an tâm hơn, Trung Quốc sẽ tiết chế hành vi như vậy. Nhưng điều ngược lại dường như khó có khả năng xảy ra. Quả thực, các hành động khiêu khích của Bắc Kinh đã xảy ra đồng thời với sự gia tăng đáng kể sức mạnh quân sự của nước này. Hiện nay, Trung Quốc đang đầu tư vào một số năng lực mới, điều đặt ra một thách thức trực tiếp cho sự ổn định của khu vực.
Quân đội Trung Quốc (PLA) đang tăng cường cái được gọi là các năng lực chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD), nhằm ngăn chặn các quân đội khác chiếm đóng hoặc vượt qua các dải lãnh thổ rộng lớn, với mục tiêu đặc biệt là biến Tây Thái Bình Dương thành một khu vực cấm ra vào đối với quân đội Mỹ. Mục tiêu đó bao gồm cả việc phát triển các phương tiện nhằm vào các hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Lầu Năm Góc, vốn phụ thuộc nặng nề vào các vệ tinh và mạng Internet để phối hợp hoạt động tác chiến và hậu cần. PLA đã có tiến bộ đáng kể trên mặt trận này trong những năm gần đây, thử nghiệm một tên lửa chống vệ tinh, sử dụng tia laser để “làm mù” các vệ tinh của Mỹ, và tiến hành các cuộc tấn công mạng tinh vi vào các mạng lưới phòng thủ của Mỹ.
Trung Quốc cũng đang tăng cường khả năng của mình để nhằm vào các phương tiện quân sự quan trọng của Mỹ và hạn chế khả năng của hải quân Mỹ hoạt động ở các vùng biển quốc tế. PLA đã có các tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình thông thường có thể tấn công các cơ sở lớn của Mỹ ở khu vực này, chẳng hạn như căn cứ không quân Kadena, ở Okinawa, Nhật Bản, và đang phát triển máy bay chiến đấu tàng hình có khả năng tấn công nhiều mục tiêu nằm dọc chuỗi đảo thứ nhất.
Để phát hiện và nhắm tới các tàu hải quân ở khoảng cách xa hơn, PLA đã triển khai các hệ thống radar và vệ tinh do thám mạnh mẽ, cùng với các phương tiện bay không người lái (UAV) có thể thực hiện các nhiệm vụ do thám tầm xa. Và để đuổi theo các tàu sân bay của Mỹ, cũng như các tàu chiến trên mặt nước bảo vệ chúng, hải quân Trung Quốc đang mua các tàu ngầm được trang bị ngư lôi tối tân và tên lửa hành trình tốc độ cao được thiết kế để tấn công các tàu ở khoảng cách xa.
Các hành động của Bắc Kinh không thể được biện minh như một hành động đáp trả trước sự tăng cường vũ trang của Mỹ. Trong thập kỷ qua, Washington đã tập trung năng lượng và các nguồn lực của mình chủ yếu vào việc hỗ trợ các lực lượng trên bộ của Mỹ ở Afghanistan và Iraq. Ngân sách quốc phòng của Mỹ, mà cho đến gần đây chiếm hơn 4% GDP (tổng sản phẩm quốc nội) của nước này, được dự báo sẽ giảm xuống dưới 3% vào cuối thập kỷ này. Nói đơn giản, Lầu Năm Góc đang đánh rơi các khả năng quân sự trong khi PLA đang tích lũy chúng.
Tuy nhiên, nếu quá khứ là nguồn gốc của bối cảnh hiện tại, Trung Quốc sẽ không tìm cách giải quyết các mục tiêu theo tham vọng của mình bằng cách gây hấn công khai. Nhất quán với văn hóa chiến lược của nước này, Trung Quốc muốn thay đổi cán cân quân sự theo chiều hướng có lợi cho mình một cách chậm rãi nhưng không thể lay chuyển được, hầu như không để lại sự lựa chọn nào cho phần còn lại của khu vực này ngoài việc quy phục sự ép buộc của Trung Quốc.
Phần lớn, các nước láng giềng gần biển của Trung Quốc tin chắc rằng cam kết ngoại giao và kinh tế sẽ hầu như không có tác dụng thay đổi thực tế cơ bản này. Một số quốc gia này, trong đó có Nhật Bản, Philippines... đang ngày càng tập trung quân đội của họ vào nhiệm vụ chống lại các tham vọng của Trung Quốc. Tuy nhiên, họ hiểu rõ rằng hành động đơn lẻ sẽ là không đủ để ngăn cản Bắc Kinh thực hiện tầm nhìn phía trước. Chỉ với sự trợ giúp về vật chất của Mỹ, họ mới có thể thiết lập được một mặt trận chung ngăn chặn được các hành động gây hấn hoặc ép buộc của Trung Quốc.
Nếu Washington muốn thay đổi toan tính của Bắc Kinh, họ phải ngăn chặn khả năng Trung Quốc kiểm soát vùng trời và vùng biển xung quanh chuỗi đảo thứ nhất, bởi vì PLA sẽ phải thống trị cả hai đấu trường để cô lập nhóm đảo này. Mỹ cũng phải hợp nhất các mạng lưới tác chiến của đồng minh và củng cố các năng lực của đồng minh – cả hai điều này sẽ giúp bù lại các nỗ lực của PLA nhằm gây bất ổn cán cân quân sự của khu vực. Nói chung, các mục tiêu này có thể đạt được bằng các lực lượng mặt đất, các lực lượng này sẽ không thay thế các lực lượng không quân và hải quân hiện nay mà sẽ bổ sung cho họ.
Khi nói đến phòng không, các nước nằm dọc chuỗi đảo thứ nhất có thể củng cố năng lực của họ để ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận không phận bằng cách sử dụng các đơn vị quân đội được trang bị tên lửa đánh chặn tầm ngắn có tính cơ động cao và tương đối đơn giản (chẳng hạn như tên lửa Sea Sparrow cải tiến, được hỗ trợ bởi các hệ thống radar GIRAFFE nhằm phát hiện mục tiêu). Trong khi đó, quân đội Mỹ, cùng với các đồng minh như Nhật Bản, có thể vận hành các hệ thống tinh vi hơn, tầm xa hơn có khả năng đánh chặn tên lửa hành trình và tiêu diệt máy bay tiên tiến của Trung Quốc.
Khi đó, nhiệm vụ đề ra là ngăn chặn PLA kiểm soát vùng biển mà lực lượng này sẽ cần để gia tăng hoạt động tấn công nhằm vào các hòn đảo này. Các thành viên cấp cao của Quốc hội đã khích lệ quân đội Mỹ xem xét việc khôi phục một lực lượng pháo binh để phòng thủ bờ biển, một nhiệm vụ mà quân đội này đã từ bỏ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ý tưởng này đơn giản và có sức thuyết phục. Thay vì mạo hiểm đưa các tàu chiến vào trong phạm vi phòng thủ của PLA hoặc chuyển hướng các tàu ngầm sang các nhiệm vụ ưu tiên hơn.
Mỹ và các đồng minh của mình có thể dựa vào các lực lượng mặt đất, được bố trí dọc theo chuỗi đảo thứ nhất và được trang bị các bệ phóng cơ động và các tên lửa hành trình chống tàu, để thực hiện các hoạt động tương tự. Quân đội của Nhật Bản đã thực hiện chính xác như vậy, bố trí các đơn vị tên lửa hành trình chống tàu trên một số hòn đảo của quần đảo Ryukyu trong các cuộc diễn tập quân sự. Và các nước tiền tuyến khác cũng đã làm theo, hoặc là độc lập hoặc với sự tài trợ, huấn luyện và trợ giúp về mặt kỹ thuật của Mỹ.
Một nhiệm vụ khác mà các lực lượng mặt đất của Mỹ và đồng minh có thể đóng góp đó là chiến tranh thủy lôi. Theo truyền thống, các tàu của hải quân bố trí hoặc rà phá thủy lôi để hạn chế hoặc cho phép đi qua các vùng biển và eo biển hẹp. Mặc dù việc rà phá thủy lôi sẽ vẫn là một chức năng vốn có của hải quân, các lực lượng mặt đất có thể đóng một vai trò lớn hơn trong việc bố trí chúng, đặc biệt là nếu được đóng ở gần các eo biển chủ chốt nối biển Hoa Đông và Biển Đông với các vùng biển mở. Được trang bị khả năng đặt thủy lôi từ các căn cứ trên đất liền sử dụng các tên lửa tầm ngắn, máy bay trực thăng, hoặc xuồng lớn, các lực lượng mặt đất của Mỹ và đồng minh có thể khiến các vùng biển rộng lớn trở thành bất khả xâm phạm đối với hải quân Trung Quốc.
Các bãi mìn ở các điểm chủ chốt dọc chuỗi đảo thứ nhất sẽ làm cho một cuộc tấn công của hải quân Trung Quốc trở nên vô cùng phức tạp và làm cản trở khả năng Trung Quốc quấy rối các lực lượng hải quân của đồng minh. Trong khi đó, các khẩu đội pháo chống tàu ven biển có thể khiến các hoạt động rà phá thủy lôi của các tàu của PLA trở nên rất nguy hiểm.
(còn tiếp)
Theo Foreign Affairs