80 năm ngày Quốc khánh 2/9: Hành trình kinh tế Việt Nam từ nông nghiệp tự cấp đến top 4 ASEAN

Nhìn lại 80 năm, Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh của một nền kinh tế độc lập, tự chủ, từ nông nghiệp tự cấp vươn mình top 4 ASEAN, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nói.
Ảnh minh họa

Năm 2025 đánh dấu cột mốc đặc biệt trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam - tròn 80 năm kể từ ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945-2/9/2025), mở đầu hành trình kiến tạo một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Trong suốt 8 thập kỷ đã đi qua với muôn vàn biến động: từ khói lửa chiến tranh, khủng hoảng kinh tế tài chính, siêu lạm phát, cho đến những bước ngoặt lịch sử của công cuộc Đổi mới, hội nhập quốc tế và hiện đại hóa. Chặng đường ấy không chỉ đơn thuần là quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là cuộc cải cách sâu rộng về tư duy phát triển, thể chế quản lý, phương thức phân bổ nguồn lực và cấu trúc thị trường.

Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, nhìn lại hành trình đặc biệt này cho thấy từ một nền nông nghiệp tự cấp, Việt Nam đã vươn mình thành nền kinh tế lớn thứ 4 ASEAN, liên tục nằm trong nhóm tăng trưởng cao nhất thế giới.

Trao đổi với VietTimes, ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho hay, mỗi giai đoạn phát triển đều in đậm dấu ấn những chính sách trụ cột, với cả thành tựu lẫn thách thức, tạo nên một chuỗi lựa chọn mang tính lịch sử. Quá trình “kiến tạo tương lai” vì thế không chỉ là khát vọng, mà là sự kiên định, linh hoạt và đổi mới không ngừng của Việt Nam trong suốt 80 năm qua.

Ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Giai đoạn 1945 - 1975: Nền kinh tế thời kháng chiến, kiến quốc

Theo ông Nguyễn Bích Lâm, trong 30 năm đầu của nền độc lập, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi chiến tranh, đất nước chia cắt và xung đột hệ tư tưởng.

Ở miền Bắc, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cùng lúc phải gánh vác hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện cho miền Nam.

Chính sách kinh tế gắn chặt với nhiệm vụ chính trị và quân sự, đặt mục tiêu chính trị cao hơn hiệu quả kinh tế. Các chủ trương lớn như cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, quốc hữu hóa công thương nghiệp tư nhân đã tạo ra những thay đổi căn bản về sở hữu và quản lý sản xuất.

Ngược lại, miền Nam đi theo mô hình kinh tế thị trường, dựa trên tự do thương mại và khu vực tư nhân. Kinh tế tư nhân giữ vai trò chủ yếu, trong khi cơ sở hạ tầng điện lực, viễn thông, giao thông và các đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ phát triển năng động, gắn kết với khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, ông Lâm nhấn mạnh rằng trong bối cảnh kháng chiến, kiến quốc, nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp, kém năng động và phụ thuộc lớn vào viện trợ bên ngoài.

Dù vậy, ngay sau Cách mạng Tháng Tám, việc thành lập Nha Tài chính, phát hành đồng tiền Việt Nam và vận động nhân dân đóng góp cho kháng chiến đã đặt nền móng đầu tiên cho một hệ thống tài chính quốc gia độc lập, góp phần duy trì kháng chiến và chăm lo hậu phương. Cơ chế bao cấp khi đó phù hợp với thời chiến, nhưng cũng để lại hệ lụy là một nền kinh tế quan liêu, kém hiệu quả, khó huy động bền vững nguồn lực xã hội.

Giai đoạn 1976 - 1985: Khủng hoảng và siêu lạm phát

“Ngay sau khi đất nước thống nhất, chúng ta đối diện vô vàn khó khăn: hai cuộc chiến tranh biên giới, cấm vận quốc tế, kinh tế kiệt quệ, hạ tầng tàn phá nặng nề và tài chính quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng”, ông Lâm phân tích.

Thay vì đổi mới, Việt Nam khi đó tiếp tục áp dụng mô hình kế hoạch hóa tập trung cao độ. Ngân sách Nhà nước trở thành “nguồn tài nguyên” duy nhất, bao cấp toàn diện cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh ở miền Nam xóa bỏ vai trò của đội ngũ doanh nhân, trong khi Nhà nước quản lý, phân phối mọi nguồn lực bằng mệnh lệnh hành chính. Sản xuất đình trệ, hàng hóa khan hiếm, thị trường ngăn sông cấm chợ, chợ đen và đầu cơ trở thành phổ biến.

Theo ông Lâm, hệ quả của cơ chế quản lý duy ý chí này là triệt tiêu động lực sản xuất, khiến nguồn thu thấp trong khi nhu cầu chi cho khôi phục đất nước và quốc phòng rất lớn. Thâm hụt ngân sách kéo dài được bù đắp bằng phát hành tiền, khiến cung tiền giai đoạn 1981 - 1985 tăng tới gần 65%/năm. Hệ thống tài khóa thiếu minh bạch, ngân sách bị chia cắt, dẫn đến khủng hoảng tài chính, tiền tệ nghiêm trọng.

Để ứng phó, Nhà nước tiến hành cải cách “Giá - Lương - Tiền” năm 1985, song chính sách đổi tiền, tăng lương, điều chỉnh giá lại đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng trầm trọng hơn.

“Ngay sau khi đổi tiền, lạm phát bùng nổ, niềm tin vào đồng tiền sụp đổ, vàng và đô la Mỹ trở thành phương tiện thanh toán chính trong xã hội. Đến năm 1986, lạm phát đã lên tới 453,5%”, ông Lâm cho hay.

1986 - 2000: Bước ngoặt Đổi mới, nền kinh tế mở cửa

Trước siêu lạm phát và bế tắc kinh tế - xã hội, Đại hội VI của Đảng (1986) đã đưa ra quyết định lịch sử: tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện, lấy trọng tâm là đổi mới kinh tế. Việt Nam chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ông Nguyễn Bích Lâm cho biết trong giai đoạn 1986 - 2000, Đảng và Nhà nước tập trung cải cách trên 4 lĩnh vực trụ cột:

Cải cách thể chế: Công nhận nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích khu vực tư nhân, ban hành hàng loạt luật nền tảng như Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân sách Nhà nước…

Cải cách nông nghiệp: Thực hiện khoán 10, giao quyền sử dụng đất và sản phẩm thu được trên đất cho nông dân, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung cứng nhắc, tạo động lực sản xuất cho nông dân. Từng bước đổi mới chính sách đất đai theo hướng trao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân.

Cải cách tài khóa - tiền tệ: Xóa bỏ bao cấp về giá, lương, tiền; khôi phục lòng tin vào đồng Việt Nam; xây dựng hệ thống ngân hàng hai cấp; thiết lập kỷ luật tài khóa minh bạch hơn.

Thành tựu nổi bật trong giai đoạn 1986-2000 của lĩnh vực tài chính đó là đã xoá bỏ cơ chế quản lý mệnh lệnh hành chính, bao cấp; hình thành khuôn khổ chính sách tài khoá minh bạch, tăng nguồn thu, giảm bội chi, lạm phát được kiểm soát. Tuy vậy, hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, giám sát chi ngân sách Nhà nước còn lỏng lẻo.

Mở cửa hội nhập: Năm 1993 tham gia Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), gia nhập ASEAN (1995), APEC (1998) và ký Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ (2000).

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đánh giá thành tựu nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới đó là đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng GDP bình quân năm giai đoạn 1986-1990 đạt 4,4%; giai đoạn 1991-2000 đạt 7%; chấm dứt tình trạng siêu lạm phát kéo dài nhiều năm, lạm phát từ mức 3 con số 453,5% năm 1986 giảm xuống 95,8% năm 1989 và 37,7% năm 1992.

Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tăng ổn định từ dưới 10% vào đầu thập niên 1990 lên trên 20% vào cuối giai đoạn; cải thiện đời sống nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 30% năm 2000; thu hút khá mạnh dòng vốn FDI, thời kỳ 1986 -2000 nền kinh tế thu hút được trên 40 tỷ USD vốn FDI đăng ký; khu vực kinh tế tư nhân dần trỗi dậy với làn sóng thành lập doanh nghiệp tư nhân mạnh mẽ.

Xuất khẩu tăng trưởng nhanh, ổn định. Quy mô kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,45 tỷ USD, gấp 18,3 lần năm 1986; tạo nguồn thu ngoại tệ, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, nâng cao vị thế thương mại hàng hoá quốc tế của Việt Nam.

“Giai đoạn 1986-2000 đánh dấu công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ nhất, tạo bước ngoặt lịch sử, mang tính then chốt với việc chuyển đổi tư duy và mô hình kinh tế, cải cách tài khoá đã gắn với cải cách thể chế, bộ máy và minh bạch tài chính công, đưa kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng trong những năm tiếp theo”, ông Lâm khẳng định.

2001 - 2020: Thập kỷ bứt phá, hội nhập sâu rộng

Bước sang thế kỷ 21, ông Lâm chia sẻ Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập và cải cách, với những dấu ấn bứt phá trên bốn phương diện.

Một là, gia nhập WTO, ký nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đưa thương mại Việt Nam hòa nhập sâu với toàn cầu. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 282,6 tỷ USD, gấp 19,5 lần so với năm 2000.

Hai là, cải cách tài khóa theo hướng hiện đại, kiểm soát nợ công, bội chi trong giới hạn an toàn.

Trong giai đoạn này, tỷ lệ thu ngân sách ổn định ở mức 22-24% GDP, với cơ cấu hợp lý hơn; bội chi ngân sách được duy trì ở ngưỡng cho phép, bảo đảm dư địa tài khoá ứng phó khủng hoảng; nợ công được kiểm soát an toàn, dưới ngưỡng 60% GDP vào cuối năm 2020; hiệu quả đầu tư công được cải thiện.

Ba là, tốc độ tăng GDP nhanh và ổn định, từng bước chuyển dịch sang chiều sâu, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, đóng góp của các khu vực kinh tế ngày càng cân bằng, lạm phát được kiểm soát. Tốc độ tăng GDP bình quân 20 năm giai đoạn 2001-2020 đạt 6,58%; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt mức 2.779 USD gấp 5,57 lần năm 2000, đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp.

Năm 2020, tỷ lệ GDP của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chiếm 50,56% trong tổng GDP toàn nền kinh tế cao hơn nhiều so với tỷ lệ 20,66% của khu vực Nhà nước.

Thứ tư, chuyển đổi mô hình phát triển từ khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ sang ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất. Khu vực ngoài Nhà nước phát triển nhanh, trở thành động lực tăng trưởng mới, ngày càng quan trọng; khu vực FDI năng động, chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu.

“Giai đoạn này đánh dấu bước tiến dài về phát triển kinh tế. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, kiểm soát lạm phát, giữ ổn định vĩ mô, hội nhập sâu rộng, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân”, ông Lâm nhận định.

Khởi xướng công cuộc Đổi mới lần thứ hai

Giai đoạn 2021 - 2025, theo nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, đây là một “phép thử” đặc biệt với kinh tế Việt Nam, khi đất nước vừa đối diện những biến động sâu sắc của thế giới, vừa gánh chịu hệ lụy nặng nề từ đại dịch Covid-19.

Theo ông Lâm, thế giới giai đoạn này chứng kiến những thay đổi có tính bước ngoặt: địa chính trị bất ổn, toàn cầu hóa phân mảnh, chuỗi cung ứng dịch chuyển, xu hướng tăng trưởng xanh và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Cùng lúc đó, lợi ích và an ninh quốc gia đang định hình lại mọi chính sách kinh tế toàn cầu.

“Việt Nam có độ mở kinh tế lớn, chịu tác động trực tiếp từ những cú sốc đó. Đại dịch Covid-19 khiến chuỗi cung ứng đứt gãy, sản xuất đình trệ, thu nhập người lao động sụt giảm, tổng cầu suy yếu. Hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, liên kết vùng lỏng lẻo, trong khi chất lượng nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0”, ông Lâm phân tích.

Ông cho rằng, rào cản lớn nhất chính là thể chế kinh tế. “Do tác động của tư duy hệ tư tưởng, nhiều chính sách chưa phù hợp với logic của kinh tế thị trường, khiến thể chế trở thành điểm nghẽn nghiêm trọng, gây lực cản phát triển. Môi trường kinh doanh chưa thực sự minh bạch, khu vực tư nhân khó tiếp cận đất đai, vốn, tín dụng. Đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp, đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính”, ông nhấn mạnh.

Việt Nam duy trì vị thế là một trong những nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu ASEAN, với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 405,5 tỷ USD

Trong bối cảnh khủng hoảng chồng chéo, theo ông Lâm, chính sách vĩ mô đã trở thành “mỏ neo ổn định”, đồng thời là “bệ đỡ phục hồi” và “đòn bẩy cải cách” cho nền kinh tế. Việc kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định hệ thống tài chính và củng cố niềm tin thị trường là thành công quan trọng của Chính phủ giai đoạn này.

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, giai đoạn 2021-2025, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, phục hồi tăng trưởng. Năm 2022, GDP tăng 8,02% cao nhất trong vòng 11 năm qua; lạm phát luôn được kiểm soát dưới mức mục tiêu; huy động và sử dụng hiệu quả hơn vốn đầu tư. Việt Nam duy trì vị thế là một trong những nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu ASEAN, với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 405,5 tỷ USD, là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo.

“Ngày nay, thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới, hệ thống kinh tế toàn cầu định hình lại, đứng trước nhiều ngã rẽ. Để ứng phó và tận dụng cơ hội, Việt Nam không thể tiếp tục đi theo lối mòn cũ. Đã đến lúc phải khởi xướng một công cuộc Đổi mới lần thứ hai - đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển và quản trị quốc gia”, ông Lâm khẳng định.

Theo ông, Bộ Chính trị đã có những bước đi quyết liệt: tinh gọn bộ máy Nhà nước, phân định rõ chức năng và trách nhiệm giữa các cơ quan, xây dựng nền hành chính hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân. Đồng thời, dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng, tăng cường đối thoại, tham vấn chính sách với người dân.

“Chúng ta đang triển khai Bộ ‘tứ trụ cột chiến lược’: tạo lập thể chế minh bạch, xây dựng Nhà nước kiến tạo, cải cách giáo dục toàn diện và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại. Đây là nền tảng để khai mở toàn bộ tiềm năng phát triển trong kỷ nguyên mới”, ông nhấn mạnh.

Để Đổi mới lần thứ hai thành công, ông Nguyễn Bích Lâm kiến nghị tập trung vào 5 lĩnh vực trọng điểm:

Cải cách thể chế kinh tế: Bảo đảm tính phù hợp với thực tiễn, nâng cao minh bạch, loại bỏ cơ chế “xin - cho”, kiểm soát chặt chất lượng chính sách để không tạo ra xung đột và điểm nghẽn mới.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển: Thực sự của dân, do dân, vì dân; có năng lực hoạch định chiến lược và quản trị hiệu quả.

Cải cách giáo dục tri thức nguyên bản: Tạo nền tảng cho khoa học - công nghệ, nuôi dưỡng năng lực sáng tạo tri thức, đưa Việt Nam vươn tầm thế giới.

Cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng: Phát triển theo hướng kinh tế xanh, tuần hoàn; khuyến khích khởi nghiệp, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Kiến tạo kinh tế tư nhân và doanh nghiệp dân tộc: Xem đây là lực lượng tiên phong, động lực quan trọng nhất trong phát triển và hội nhập toàn cầu.

Ông Lâm nhấn mạnh: “Nếu Đổi mới 1986 là lựa chọn sống còn để cứu nền kinh tế khỏi khủng hoảng thì Đổi mới 2025 trở đi chính là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững”.

Thành tựu 80 năm qua đã chứng minh sức mạnh của đổi mới: từ nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, quy mô GDP chỉ 8 tỷ USD (1986), Việt Nam đã vươn lên đạt hơn 476 tỷ USD năm 2024, tăng gấp gần 60 lần. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2024, tầng lớp trung lưu chiếm 13% dân số.

“Kinh tế Việt Nam đã chứng minh sức chống chịu trước những cú sốc toàn cầu, đồng thời khẳng định con đường phát triển đúng đắn. Đổi mới lần thứ hai sẽ là động lực để đất nước bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng”, ông Lâm kết luận.