Ấn Độ không còn che giấu tham vọng đóng một vai trò chính trị và an ninh tích cực hơn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đây là nhận định của chuyên gia Sylvia Mishra, trong bài phân tích đăng trên National Interest (Mỹ) mới đây.
Theo nhận định của nhà nghiên cứu Sylvia Mishra, vì các lý do chính trị và thương mại, khu vực châu Á-Thái Bình Dương đóng vai trò quan trọng trong chính sách tư duy chiến lược của Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ có thể chưa đủ khả năng hòa nhập một cách khôn khéo vào khu vực, do thiếu chính sách phù hợp, hiện đại hóa quân sự và tốc độ phi mã của nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, New Delhi đã từng bước phát triển trọng lượng chiến lược và kinh tế của mình thông qua “Chính sách hướng Đông” và theo đuổi chinh sách ngoại giao đa phương.
Trong bối cảnh tăng cường an ninh tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, một quốc gia quan trọng giúp Ấn Độ có thể hiện diện và duy trì vị trí trong khu vực là Việt Nam. Trong vài năm gần đây, vai trò ngoại giao của Hà Nội đã gia tăng trong tính toán chiến lược của New Delhi. Giữa một “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ và một “chính sách hướng Tây” của Việt Nam, cả hai nước có một cơ hội lịch sử để hình thành sự cân bằng quyền lực ở châu Á.
Ấn Độ giúp Việt Nam hiện đại hóa quốc phòng
Chính quyền Modi đã đánh dấu sự chín chắn trong chiến lược châu Á của Ấn Độ, thể hiện qua việc cam kết tăng cường và nâng mối quan hệ với Việt Nam ở cấp độ cao hơn. Tuy nhiên, cả hai nước cần phải nỗ lực nhiều hơn để xây dựng chiến lược phối hợp ngoại giao và quân sự một cách rõ ràng hơn và gần gũi hơn. Sự lo ngại trước những yêu sách bành trướng và thái độ ngang nhiên coi thường các nguyên tắc quốc tế của Trung Quốc càng giải thích việc New Delhi và Hà Nội cải thiện quan hệ song phương.
Ấn Độ và Việt Nam đã có nền tảng tảng quan hệ ngoại giao chặt chẽ được Jawaharlal Nehru, vị thủ tướng Ấn Độ đầu tiên và chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh thiết lập trong chuyến công du Ấn Độ tháng 2/1958. Tuy nhiên, cả hai nước cần phải vượt trên cả những nền tảng lịch sử này để xây dựng cơ chế chính trị-quân sự mới hoàn toàn thích ứng với một trật tự châu Á đang phát triển. Tương lai rộng mở cho mọi mối quan hệ hợp tác tốt đẹp hơn giữa hai nước, trong các lĩnh vực phát triển hợp tác quốc phòng, ngoại giao, hải quân hay thương mại và đầu tư.
Gần đây, trong chuyến thăm chính thức New Delhi vào tháng 5/2014 của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, các nhà lãnh đạo hai nước tuyên bố sẽ tăng cường quan hệ quốc phòng thông qua đối thoại an ninh, xây dựng năng lực và hành động nhân đạo rà xóa bom mìn theo quy định của Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM Plus).
Hai nước cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hạn mức tín dụng, theo đó Ấn Độ cho Việt Nam vay 100 triệu USD để mua trang thiết bị quốc phòng. Nằm trong khoản vay trên có đơn hàng Ấn Độ chuyển giao cho Việt Nam 4 tàu tuần tra ngoài khơi. Những sự kiện này cho thấy, một mặt, Ấn Độ đã sẵn sàng để trở thành một nước xuất khẩu vũ khí. Mặt khác, quốc gia Nam Á này cũng mong muốn góp phần nâng cao năng lực quốc phòng của Việt Nam.
Việc New Delhi hỗ trợ Hà Nội hiện đại hóa lực lượng quân sự không phải là điều mới mẻ. Trước đó, dưới thời chính phủ của đảng Liên minh Tiến bộ Thống nhất (United Progressive Alliance, UPA) đã diễn ra nhiều cuộc đàm phán chuyển giao các tên lửa hành trình siêu thanh Brahmos do Ấn Độ sản xuất.
Việt Nam cũng đã tìm cách hợp tác với Ấn Độ trong lĩnh vực hàng hải. Cả hai nước đã tham gia vào trao đổi tàu thuyền thường xuyên, trong khi các sĩ quan Ấn Độ huấn luyện cho các lực lượng tàu ngầm Việt Nam. Trước những tranh chấp lãnh thổ và tuyên bố chủ quyền trên gần hết vùng Biển Đông của Trung Quốc, Việt Nam đã phải nỗ lực để giữ lãnh thổ trong bối cảnh Bắc Kinh không ngừng tiến hành nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trên các rạn san hô.
Một báo cáo mới của Viện Nghiên cứu Hoà bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) nhấn mạnh rằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 46% lượng vũ khí nhập khẩu toàn cầu trong vòng 5 năm trở lại đây. Cuộc chạy đua vũ trang cũng chứng tỏ tính thiếu an toàn tại khu vực này, nơi Trung Quốc “bắt nạt” các nước láng giềng nhỏ hơn song lại không bị trừng phạt.
Từ lâu, Ấn Độ rất thận trọng với các bên tranh chấp lãnh thổ. Nhưng dưới thời chính quyền Modi có một sự thay đổi chính sách ngày càng rõ nét. Hiện New Delhi tiếp cận vấn đề này một cách thực dụng hơn và không ngại làm “mếch lòng” Trung Quốc.
Ấn Độ ủng hộ Mỹ “xoay trục” châu Á
Tuyên bố “Tầm nhìn chiến lược” Ấn Độ-Mỹ về khu vực châu Á-Thái Bình Dương cùng với việc ủng hộ tự do hàng hải ở Biển Đông là một trong những dấu hiệu cho thấy sự thay đổi chính sách trên. Mặc dù New Delhi đã từ chối nhiều cuộc đàm phán về tuần tra chung ở Biển Đông với Hoa Kỳ, nhưng Ấn Độ đang dần để lộ rõ tham vọng đảm trách vai trò an ninh quan trọng hơn để khôi phục trật tự dựa trên luật lệ trong khu vực này.
Nhìn xa hơn, quan hệ hợp tác của Ấn Độ với Việt Nam trước hết là sự hưởng ứng ngày càng mạnh mẽ đối với chính sách “tái cân bằng” của Mỹ. Ấn Độ, Mỹ và Việt Nam cùng chia sẻ lợi ích chung trong việc ngăn chặn hành vi thống trị của Trung Quốc trên các tuyến đường thương mại hàng hải, cũng như các yêu sách đòi hỏi chủ quyền và hành vi chiếm đoạt lãnh thổ của Bắc Kinh.
Vào thời điểm khi Trung Quốc đang triển khai hệ thống tên lửa tiên tiến đất đối không trên các đảo đang có tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam coi sự hiện diện của Mỹ như một lá chắn chống lại sức mạnh quân sự ngày càng hùng hậu của Bắc Kinh. Chắc chắn, quân đội Mỹ đồn trú trong khu vực sẽ có tầm ảnh hưởng đáng kể đến sự cân bằng sức mạnh tại đây. Tuy nhiên, duy trì ngoại giao và sự hỗ trợ an ninh với các nhân tố khác trong vùng như Ấn Độ, Nhật Bản và Úc sẽ là một lực cản đáng kể. Thêm vào đó là lời cam kết về kinh tế của New Delhi với Việt Nam và các nước châu Á-Thái Bình Dương khác cũng là một yếu tố giúp các quốc gia khác nhìn nhận Ấn Độ như một cán cân tái cân bằng trong khu vực.
Tuy nhiên, mối quan hệ đối tác thương mại Ấn Độ và Việt Nam vẫn còn chưa phát triển mạnh. Trong khi thương mại của Ấn Độ với Việt Nam ở mức thấp đáng ngạc nhiên, chỉ vào khoảng 8,08 tỷ USD (năm 2014), thì ngược lại giao thương Việt Nam-Trung Quốc không ngừng tăng, bất chấp những tranh chấp lãnh thổ kéo dài từ nhiều thế kỷ, đạt 66 tỷ USD (năm 2015).
Theo một báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, có khoảng 1.346 dự án của Trung Quốc đang được thực hiện tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 10,4 tỷ USD. Như vậy, Trung Quốc trở thành nhà đầu tư lớn thứ chín trên tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Vẫn theo báo cáo của Cục Đầu tư Nước ngoài, các doanh nghiệp Trung Quốc đã tăng mạnh vốn đầu tư : từ 312 triệu USD vào năm 2012 lên tới 2,3 tỷ USD vào năm 2013 và cuối cùng là 7,9 tỷ USD vào năm 2014.
Là thành viên của Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB), Việt Nam muốn tận dụng các khoản đầu tư Trung Quốc để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông. Chính vì vậy, để đáp ứng những ràng buộc kinh tế, giới doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nỗ lực để kiềm chế làn sóng bạo lực và bài Trung Quốc trong những năm gần đây.
Cách Ấn Độ tiếp cận thực tế với Việt Nam nên bao gồm cả quan hệ chiến lược và quốc phòng, cũng như thúc đẩy chính sách thương mại và đầu tư đầy tiềm lực trong các lĩnh vực dệt may, nông nghiệp, dược phẩm, năng lượng, dầu mỏ và khí đốt. Những nỗ lực để xây dựng hợp tác song phương này không chỉ là chìa khoá cho tái cân bằng quyền lực châu Á, mà còn mở đường cho vai trò chủ đạo của Ấn Độ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
* Tác giả Sylvia Mishra là nhà nghiên cứu thuộc Tổ chức Nghiên cứu Quan sát, chuyên gia về chính sách của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và quan hệ Ấn Độ-Mỹ.