Ứng cử viên Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa Ted Cruz đã gọi Tổng thống Nga Vladimir Putin là “kẻ hung hăng và độc tài”. Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa và từng là ứng cử viên Tổng thống Marco Rubio cáo buộc ông là “găng-xtơ”. Ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Dân chủ Hillary Clinton thì đùa rằng: “Tôi không hâm mộ Ngài Putin cho lắm”. Thậm chí cả Tổng thống Barack Obama cũng không ngoại lệ khi mô tả ông Putin “giống như một đứa trẻ tẻ nhạt ngồi cuối lớp” và chế nhạo ông khi gọi nước Nga chỉ là “một cường quốc khu vực”.
Có một vấn đề liên quan tới tất cả những lời chế giễu này: Đó là giả sử ông Putin tái đắc cử vào năm 2018, nhiều khả năng ông sẽ tiếp tục là tổng thống của một nước Nga đang trỗi dậy, ít ra là tới tận năm 2024. Điều này đòi hỏi tổng thống Mỹ tiếp theo phải tránh cá nhân hóa mối quan hệ này và thay vào đó, cần xử lý các quan hệ Nga-Mỹ với một tầm nhìn rộng hơn.
Trước hết, quan hệ giữa Mỹ với Nga phải được định hướng một cách nghiêm túc vì lợi ích quốc gia của Mỹ. Điều này có nghĩa là cần phải hiểu rằng không phải mọi hành động của Nga – dù Mỹ có không chấp nhận nó tới mức thế nào đi nữa – cũng không nhất thiết buộc Mỹ phải phản ứng. Khi chiến dịch ném bom của Nga ở Syria bắt đầu, việc ông Obama không có phản ứng đã khiến nhiều người chỉ trích ông Obama nhu nhược. Những người khác thì quả quyết rằng chiến thắng của ông Putin ở Syria đe dọa lợi ích của Mỹ.
Những lập luận này bỏ qua một điểm chính, đó là ngoài việc làm suy yếu và đánh bại tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng, nước Mỹ không có lợi ích cốt yếu nào ở Syria. Đúng là người ta có thể cho rằng ông Putin đã “thắng” ở Syria – ông đã cứu được tổng thống Syria Bashar al-Assad, buộc Mỹ phải từ bỏ quan điểm rằng “ông Assad phải ra đi”, thiết lập được 4 căn cứ quân sự và cho thấy sức mạnh quân sự của Nga – song sao nữa? Syria là đồng minh hàng đầu của Liên bang Xô viết ở Trung Đông trước đây, và Mỹ vẫn ổn với điều đó từ bao nhiêu thập kỷ qua. Thực tế, sự can thiệp của Nga có lẽ còn giúp Mỹ, bởi chiến dịch ném bom của Nga tạo điều kiện cho quân đội chính quyền Assad giành lại thành phố Palmyra, đồng thời tiêu diệt được 400 tay súng IS. Điểm mấu chốt là một “chiến thắng” của Nga không phải lúc nào cũng có nghĩa là một “thất bại” đối với Mỹ, nhất là nếu chiến thắng đó không ảnh hưởng gì tới những lợi ích quan trọng của Mỹ.
Mặc dù không phải mọi “chiến thắng” của Nga đều đồng nghĩa với một “thất bại” đối với Mỹ song có một số tình huống đòi hỏi Mỹ phải chống lại những mối đe dọa từ Nga. Cụ thể, Washington phải vạch ra một giới hạn đỏ rõ ràng liên quan tới bất kỳ nỗ lực nào của Moscow nhằm dùng vũ lực đối với một đồng minh thuộc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Các đồng minh của Mỹ trong khối NATO ở Đông Âu, nhất là các nước vùng Baltic, rất lo ngại nguy cơ này.
Khi quan hệ của Nga và phương Tây bắt đầu xấu đi vào thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng ở Ukraine, Moscow đã không ngừng tìm cách làm suy yếu các nước láng giềng ở khu vực Baltic, bằng việc đưa các nhân viên tình báo cấp cao tới và tiến hành hàng loạt vụ xâm phạm không phận nghiêm trọng. Một số nước thậm chí lo ngại một ngày nào đó Nga có thể dùng vũ lực chống lại các nước Baltic nhằm thách thức hay với mục đích sâu xa là chia rẽ NATO.
Mặc dù thừa nhận việc kết nạp 3 quốc gia nhỏ và thiếu khả năng tự vệ vào NATO là một quyết định không khôn ngoan, song theo hiệp ước, Mỹ hiện có trách nhiệm đảm bảo an ninh cho các đồng minh này. Để kiềm chế mối đe dọa này, Mỹ có quyền tăng cường sự hiện diện quân sự ở Đông Âu bằng việc bổ sung các lữ đoàn thiết giáp. Mặc dù không nên tìm cách đối đầu với Nga, song Mỹ cũng không phải né tránh việc làm này nếu Moscow đe dọa Washington hoặc các đồng minh trong khối NATO.
Cuối cùng, Mỹ nên tìm cách hợp tác với Nga trong những lĩnh vực mà lợi ích hai bên đan xen với nhau. Một lĩnh vực quan trọng mà hai bên có nhiều lợi ích đan xen là cuộc chiến chống khủng bố và chống phổ biến vũ khí hạt nhân. Chẳng hạn chương trình Hợp tác Giảm thiểu Mối đe dọa (CTR), Mỹ đã dành gần 2 thập kỷ để giúp Nga giảm thiếu mối đe dọa “thất thoát vũ khí hay công nghệ hạt nhân”.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở Ukraine đã khiến thành tựu hợp tác an ninh hạt nhân Nga-Mỹ sụp đổ. Mối đe dọa vẫn ở mức cao. Nga đang sở hữu kho hạt nhân lớn nhất thế giới gồm hơn 200 tòa nhà và boongke cất giữ urani và plutoni. Chẳng có gì ngạc nhiên khi trong phần lớn các vụ buôn lậu hạt nhân được phát hiện, nguyên liệu thường có xuất xứ từ Nga. Vậy nếu IS “sở hữu nguyên liệu hay vũ khí hạt nhân”, Tổng thống Mỹ kế tiếp sẽ phải coi việc khôi phục hợp tác Nga-Mỹ nhằm giảm thiểu nguy cơ khủng bố hạt nhân là mối ưu tiên hàng đầu.
Theo các quan chức phương Tây, Nga đã có công lớn trong việc hiện thực hóa thỏa thuận hạt nhân với Iran trong năm vừa qua, nhất là nỗ lực tìm ra giải pháp đáp ứng nguyện vọng của nước cộng hòa Hồi giáo này về điện hạt nhân. Với đề nghị hỗ trợ xây dựng nhà máy điện hạt nhân và cung cấp cho Tehran các nguyên liệu cần thiết, Nga đã hạn chế được lý do cơ bản cho việc phát triển năng lực làm giàu urani ở quy mô lớn của Iran.
Moscow cũng đóng một vai trò then chốt trong việc triển khai thỏa thuận hạt nhân với Iran. Tháng 12/2015, sau khi thỏa thuận được ký kết, Nga đã tiếp nhận 8.5 tấn urani đã làm giàu của Iran – bao gồm cả nhiên liệu gần đạt tiêu chuẩn để chế tạo bom hạt nhân – khiến cho Iran không có đủ lượng urani đã làm giàu để có thể chế tạo bom nếu muốn. Nga là thành viên thường trực của cả Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lẫn nhóm P5+1, nên Mỹ cần hợp tác với Nga để đảm bảo việc Iran tiếp tục tuân thủ thỏa thuận.
Cuối cùng, Washington và Moscow đã đàm phán START Mới, thỏa thuận cắt giảm vũ khí hạt nhân mới đây nhất giữa hai cường quốc. Hiệp ước này yêu cầu hai bên giảm số vũ khí hạt nhân tấn công được triển khai xuống dưới 150 trước ngày 5/2/2018, cùng hàng loạt biện pháp đã đồng thuận, kể cả các chuyến thăm cơ sở hạt nhân của nhau. Tín hiệu tích cực là ở chỗ bất chấp căng thẳng trong vấn đề Ukraine, quân đội Nga vẫn tiếp tục xúc tiến việc hoàn tất quá trình đàm phán. START Mới có hiệu lực tới 5/2/2021 và sau đó hai bên sẽ cần tiếp tục đàm phán về một hiệp ước mới. Có thể nói, việc đạt được thỏa thuận tiếp theo sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Mỹ tiếp theo.
Yếu tố then chốt dẫn dắt quan hệ hợp tác hạt nhân Nga-Mỹ là lợi ích chung. Cả Washington và Moscow đều muốn hạn chế nguy cơ khủng bố bằng vũ khí hạt nhân. Không bên nào muốn Iran có được vũ khí hạt nhân và cả hai đều có lợi khi cắt giảm kho vũ khí hạt nhân của mình. Chính quyền Mỹ tiếp theo cần thúc đẩy lợi ích của Mỹ bằng cách hợp tác với Nga trong các lĩnh vực khác như chống biến đổi khí hậu, chống buôn lậu ma túy và ổn định tình hình Afghanistan.
Dù việc chế nhạo ông Putin có vẻ thú vị, song một chính sách thực tế để thúc đẩy lợi ích của Mỹ mới là cái cần có trong mối quan hệ với Nga.