Nhiều nền kinh tế phải trả giá cho sai lầm của Ngân hàng Trung ương

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Nhiều ngân hàng trung ương đã dự báo sai về lạm phát, nhưng khi nhận ra điều này, họ vẫn tiếp tục đưa ra các chính sách mơ hồ và kéo giảm đà phục hồi kinh tế hậu đại dịch.

Chủ tịch FED Jerome Powell (Ảnh: Fox Business)
Chủ tịch FED Jerome Powell (Ảnh: Fox Business)

Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) được dự đoán sẽ tăng tỷ lệ lãi suất thêm 75 điểm cơ bản (0,75%) trong tuần này, chỉ vài tuần sau khi Chủ tịch Jerome Powell cùng đội ngũ của ông liên tục nói về mức tăng 0,5%. Đây là diễn biến mới nhất trong hàng loạt sai lầm, từ việc FED cho rằng lạm phát cao chỉ là “tạm thời” cho đến việc họ kết thúc sớm chương trình mua trái phiếu. Trên thực tế, lạm phát lại kéo dài hơn dự kiến và thậm chí lan rộng.

Bà Christine Lagarde - Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), cũng đã chuyển sang quan điểm thắt chặt tiền tệ hơn so với trước đây. Tương tự, Ngân hàng Trung ương Australia cũng nâng lãi suất nhanh hơn dự kiến.

Thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde (Ảnh: Bloomberg)

Thống đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde (Ảnh: Bloomberg)

Giới đầu tư lo ngại rằng, loạt động thái nhằm bù đắp sai lầm trong quá khứ của các ngân hàng trung ương có thể đẩy các nền kinh tế vào suy thoái. Nhiều thị trường cổ phiếu đã bước vào “thị trường gấu” (thị trường giá xuống), lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ đầu tuần này có mức tăng mạnh nhất kể từ những năm 1980, và các thị trường tín dụng cho thấy nhiều tín hiệu căng thẳng.

Hội đồng quản trị của ECB sẽ tổ chức một cuộc họp bất thường trong hôm 15/6 “để thảo luận về những điều kiện thị trường hiện tại”, theo một phát ngôn viên. Trong khi đó, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) cũng gặp khó trong việc thuyết phục thị trường rằng chính sách tiền tệ nới lỏng của họ là bền vững.

“Các ngân hàng trung ương đang ở thế tiến thoái lưỡng nan”, Sayuri Shirai, cựu thành viên điều hành của BoJ, hiện là Giáo sư tại ĐH Keio, nhận định. “Để phục hồi lòng tin, các ngân hàng trung ương cần phải nâng lãi suất” đủ để giảm lạm phát, và điều đó “có thể kéo tụt đà phục hồi kinh tế.”

Các hộ gia đình và công ty vẫn tin rằng các ngân hàng trung ương sẽ đạt được các mục tiêu của họ trong kiềm chế lạm phát, từ đó giúp giảm sức ép về giá cả. Hộ gia đình có thể giảm mua sắm, với niềm tin rằng giá cả rồi sẽ đến lúc hạ xuống. Trong khi đó, người lao động cũng sẽ giảm mức bù đắp chi phí sống trong các cuộc đàm phán lương.

Chủ tịch FED Chicago Charles Evans (Ảnh: Bloomberg)

Chủ tịch FED Chicago Charles Evans (Ảnh: Bloomberg)

Đến mãi gần đây, các nhà hoạch định chính sách mới nhấn mạnh rằng, kỳ vọng lạm phát dài hạn đã được kiềm chế - đây là một phép thử uy tín đối với họ. Chủ tịch FED Chicago, Charles Evans, trong tháng 3 năm nay giải thích rằng tình trạng lạm phát hiện nay không giống như trong những năm 1980 bởi “chính sách tiền tệ nới lỏng” trong những năm 1960 và 1970 đã góp phần khiến cho dự báo lạm phát dài hạn tăng cao.

FED, ECB và các ngân hàng trung ương khác thực ra không có lỗi khi không thể dự đoán trước được tình trạng giá cả tăng đột biến do chiến sự ở Ukraine, hay khoảng thời gian mà các chuỗi cung ứng toàn cầu chịu sức ép. Tuy nhiên, việc họ liên tục mở rộng bản cân đối kế toán trong năm 2021 cùng việc duy trì tỷ lệ lãi suất ở mức gần 0 ngay trong khi lạm phát tăng và các nền kinh tế hồi phục từ khủng hoảng COVID-19 là nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn hiện tại, theo giới phê bình.

“Tôi tin rằng, điều đó đã gây ra cú giáng chí mạng tới uy tín của các ngân hàng trung ương – khi mà các nhà đầu tư nhận ra rằng lạm phát mà chúng ta đang phải đối mặt là do “con người gây ra”, và các ngân hàng trung ương đóng vai trò quan trọng”, Stephen Jen, đến từ công ty tư vấn Eurizon SLJ Capital, trụ sở London, nhận định.

Đến mãi tháng 11 năm ngoái, ông Powell mới từ bỏ cách mà ông mô tả về tình trạng lạm phát là “tạm thời” và đến tháng trước đã phải thừa nhận rằng “đáng lẽ ra phải nâng tỷ lệ lãi suất sớm hơn.”

Cựu Bộ trưởng Tài chính Lawrence Summers, một tiếng nói chỉ trích FED kể từ đầu năm 2021, đã phản ứng thẳng thừng trước các dự báo về lạm phát mà Ngân hàng trung ương Mỹ đưa ra trong tháng 3 năm nay, nói rằng đây là con số dự báo lạm phát 4,3% trong năm 2022 “hoang tưởng”.

Nhưng Mỹ không phải nước duy nhất đang phải đối mặt với thách thức về mặt uy tín.

Bà Lagarde cùng các đồng nghiệp của bà giờ đang chuẩn bị nâng lãi suất khoảng 1/4 điểm trong tháng 7 và 50 điểm cơ bản trong tháng 9. Trong khi mới tháng 12 năm ngoái, bà còn nói rằng việc thắt chặt tiền tệ trong năm nay là điều khó xảy ra.

“Tất cả các tổ chức quốc tế, các nhà dự báo có tiếng đều vấp phải sai lầm giống nhau” khi đánh giá thấp về cuộc khủng hoảng này, bà Lagarde nói trong tuần trước.

Tháng 5 vừa qua, Thống đốc ngân hàng trung ương Australia Philip Lowe nói rằng “thật đáng hổ thẹn” khi hướng dẫn chính sách trước đây rằng lãi suất sẽ duy trì ở mức thấp kỷ lục cho mãi tới năm 2024 đã được chứng minh là quá sai lầm.

Trong số các thị trường đang nổi, bức tranh rất hỗn loạn. Một số thị trường, như Brazil, lãi suất tăng nhanh hơn cả các nước phát triển. Trung Quốc thì lại tập trung vào các gói hỗ trợ tiền tệ để khắc phục đà giảm kinh tế.

Nhưng ở Ấn Độ, ngân hàng trung ương đã phản đối đề xuất tăng lãi suất trong tháng 4, nhưng rồi lại quyết định tăng lãi suất 2 tháng liền. Trong khi đó, lạm phát vẫn đang ở ngoài vùng an toàn của họ.

Nhiều cuộc thăm dò dư luận mới đây cũng cho thấy cộng đồng đang mất dần niềm tin.

Kết quả thăm dò do Gallup công bố trong tháng 5 cho thấy chỉ 43% những người tham gia có niềm tin “lớn” hoặc “tạm đủ” rằng ông Powell sẽ làm những điều đúng đắn cho nền kinh tế Mỹ. Mặc dù đây không phải mức thấp nhất đối với một lãnh đạo của FED, nhưng nó thấp hơn nhiều so với mức 74% của Alan Greenspan trong đầu những năm 2000.

Và lần đầu tiên được ghi nhận, có nhiều người không hài lòng hơn những người hài lòng với hoạt động của Ngân hàng Anh, xét về việc kiểm soát giá cả, theo một bản nghiên cứu của ngân hàng này.

Thống đốc BoJ Haruhiko Kuroda cũng chứng kiến tỷ lệ ủng hộ ông suy giảm sau khi ông nói người tiêu dùng đang ngày càng thích ứng hơn với giá cả gia tăng. Một cuộc thăm dò do tờ Kyodo News thực hiện, công bố hôm đầu tuần này, chỉ ra rằng 59% người tham gia không ủng hộ ông làm việc ở vị trí hiện tại.

Stanley Druckenmiller, nhà đầu tư kỳ cựu vận hành hãng Duquesne Family Office, trong tháng này cảnh báo rằng, do chính sách ngân hàng trung ương đưa ra cách đây 1 năm hoàn toàn không còn phù hợp nữa, nên các nhà đầu tư mất tiền là điều không tránh khỏi.

“Nếu các bạn kỳ vọng một cú hạ cánh an toàn, điều đó sẽ đi ngược lại lịch sử nhiều thập kỷ”, Druckenmiller nhận định.

Theo Bloomberg