Tàu đổ bộ trên đệm khí kiểu Zubr (Bò rừng) dự án 12322
Zubr «Bò rừng » là tàu chạy trên đệm không khí lớn nhất thế giới. Zubr “Bò rừng” có khả năng chạy với tốc độ của xe ô tô trên hải trình 300 hải lý. Điều đó có nghĩa là với tốc độ của một chiếc xe BMW nhanh chóng vượt qua biển Đen, sử dụng hỏa lực trên boong tàu bắn cấp tập bao chùm cả một khu vực phòng thủ rộng lớn của đối phương và đổ bộ lực lượng lính thủy đánh bộ với xe tăng, thiết giáp.
Cũng không có nhiều người biết rằng, Bò rừng được chế tạo tương tự như một tàu tấn công chủ lực mang tên lửa hành trình chiến lược với tính cơ động siêu việt, đây quả thực là một dự án vượt quá sức tưởng tượng của bất cứ nhà tư duy chiến lược nào, đáng kinh ngạc hơn nữa là khả năng cơ động của tàu Zubr trên mặt nước và cả trên bộ.
Khả năng này đã buộc những chiến lược gia phải xem xét lại toàn bộ các kế hoạch phòng thủ và tấn công của mình ngay tại thời điểm đã rất xa so với thời kỳ Xô viết. Lịch sử phát triển tàu tấn công trên đệm không khí được giữ bí mật tuyệt đối, mang đầy những bí ẩn và những sáng tạo bất ngờ.
Sự hình thành khái niệm “ tàu chạy trên đệm không khí”
Bản dự án thiết kế tàu chạy trên đệm không khí đầu tiên từ thế kỷ 18 được mộtkỹ sưThụy ĐiểnEmmunelSvedenburg. Nói chung, ngay cả nhà phát minh thiết kế cũng thấy đây là một sáng tạo bất khả thi, do đòi hỏi phải có một động cơ công suất rất lớn và rất gọn, nhỏ, loại động cơ này thời điểm lúc đó hoàn toàn chưa xuất hiện.
Nhưng trong thời kỳ Xô viết, ý tưởng táo bạo đó đã gây sự chú ý đối với Konstantin Tsiolkovsky, ông tổ ngành tên lửa. Năm 1924, chính Tsiolcovsky đã đề nghị chế tạo một xe địa hình không có bánh xe mà chạy trên đệm không khí, tiến về phía trước trên cơ sở các động cơ phản lực.
Thời gian sau đó, giáo sư ngành nghiên cứu thử nghiệm khí động học VladimirLevkov từ thời sinh viên khi đọc cuốn sách của Tsionkovski đã bị mê hoặc và ám ảnh ý tưởng chế tạo tàu chạy trên đệm không khí.
Sau nhiều lần chế tạo các tàu thử nghiệm chạy đệm khí, vào năm 1937 dưới sự lãnh đạo của Lebkov đã chế tạo thành công mẫu xuồng phóng ngư lôi thử nghiệm L-5. Nhờ có đệm không khí, L-5 có những tính năng kỹ chiến thuật hoàn toàn mới, tốc độ cơ động của xuồng phóng lôi đạt tới 130 km/h. Khi tàu chạy hết tốc độ, không một ngư lôi nào có thể đuổi kịp. Đồng thời L-5 có cả khả năng đi trên mặt nước và đi trên cạn.
Những tính năng kỹ thuật mới của tàu L-5 đã thuyết phục các sĩ quan, binh sĩ Hải quân và không những thế, bộ binh cũng rất quan tâm.Nhưng những yếu tố về công nghệ đã cản bước L-5 trở thành vũ khí thực sự của Hải quân. Vladimir Levkov tiếp tục làm việc với các dự án tàu chạy trên đệm không khí cho đến khi qua đời vào năm 1954.
Ông đã không thực hiện được ước mơ biến dự án thành một chiếc tàu thực sự chạy trên đệm khí do những khó khăn về công nghệ. Sau này, hai phát minh thiên tài đã đưa công nghệ chế tạo tàu chạy đệm không khí thoát khỏi ngõ cụt mà Levkov đã không thành công.
Sự phát triển tiếp theo của tàu đệm khí là các xe trinh sát hạng nhẹ chạy trên đệm không khí, được phát triển bới trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ của Tập đoàn sản xuất xe vận tại Transmash. Các xe trinh sát dễ dàng vượt qua các trận địa mìn chống tăng và bộ binh thông thường, vượt qua những khu vực mà xe tăng bị xa lầy hoặc cơ động khó khăn, nhưng không thể lắp cho xe vũ khí hay giáp hạng nhẹ.
Cuối cùng các ý tưởng đó đều bị loại bỏ và quyết định chế tạo tàu chạy đệm không khí với mô hình mà đến hiện nay, các tàu đổ bộ chạy trên đệm không khí vẫn đang sử dụng. Khả năng chế tạo ra tàu đổ bộ chạy trên đệm khí đã được sự ủng hộ cao nhất của Tư lệnh của Hải quân Liên bang Xô viết Sergei Gorskov. Đối với ông, đó là một khát vọng lớn cho hải quân Liên bang.
Một trong những phương tiện chiến tranh có mối đe dọa cao nhất từ phía các nước hiếu chiến (Mỹ) là các tàu sân bay, nhờ có các tàu sân bay, lực lượng quân đội Mỹ có khả năng tiến hành các chiến dịch trên chiến trường châu Âu và Thái bình dương. Để tiêu diệt các cụm tàu tấn công chủ lực, hải quân đề nghị sử dụng các cụm tàu tuần dương tên lửa, tàu ngầm với các tên lửa hành trình từ chiến thuật đến chiến lược.
Nhưng bản thân đô đốc, tư lệnh trưởng Hải quân Liên bang rất hiểu rằng, nếu không đánh chiếm được khu vực vùng vịnh và vùng đất ven bờ thì ngay các chiến hạm mạnh nhất cũng không có nhiều cơ hội tiến vào khu vực tác chiến.
Vào năm 1963 nhờ những nỗ lực đấu tranh của Tổng tư lệnh hải quân Liên bang Sergei Gorskov đã hình thành lực lượng lính thủy đánh bộ. Lực lượng lính thủy đánh bộ sẽ là lực lượng mở đường cho các chiến hạm liên bang Xô viêt ra biển lớn.
Bộ tư lệnh hải quân Xô viết đặt các nhà thiết kếcủa Trung tâm thiết kế hải quân Almaz một nhiệm vụ không đơn giản là thiết kế phát triển chiến hạm chạy trên đệm không khí. Tàu chạy trên đệm không khí phải có khả năng mang và đổ bộ tăng, thiết giáp lực lượng lính thủy đánh bộ trực tiếp lên bờ.
Dự án được đặt mã hiệu là "Dzheiran", các nhà đóng tàu thành phố Leningrad đã buộc phải làm quen với một công nghệ đóng tàu hoàn toàn mới và vật liệu đóng tàu mới. Vỏ tàu được chế tạo từ vật liệu hợp kim nhôm.
Trong quá trình đóng vỏ tàu đòi hỏi phải ghép các tấm nhôm với tiếng ồn rất lớn, người bình thường không thể ở lâu trong môi trường tiếng động có độ ồn cao như vậy, do đó từ mọi miền đất nướctuyển về những thợ đóng tàu câm – điếc. Sau một thời gian, công nghệ vỏ tàughép tấm nhôm với độ ồn lớn bị loại bỏ do vỏ tàu hợp kim nhôm bị già hóa rất nhanh.
Kết quả nỗ lực thiết kế và chế tạo thử tàu chạy trên đệm không khí với muôn vàn khó khăn vất vả chỉ cho được một tàu nhỏ chạy trên đệm không khí, nhưng tàu Dzheiran đã gây ấn tượng rất mạnh với khả năng kỹ thuật của nó, với tốc độ gần 100 km/h tàu có thể đổ bộ lên bờ biển đối phương 2 xe tăng và 200 lính thủy đánh bộ.
Tính năng kỹ chiến thuật của tàu đổ bộ hạng nhẹ trên đệm không khí Dzeiran:
Lượng giãn nước - 360 tấn; Tầm xa cơ động - 100 hải lý; Tốc độ - 48 hải lý/h; Thủy thủ đoàn - 21 người;
Vũ khí trang bị: Súng tự động 30 mm АК-230 - 2;
Khả năng đổ bộ :
Phương án 1: 4 xe tăng PT-76 và 50 lính thủy đánh bộ;
Phương án 1: 2 xe tăng hạng trung và 200 lính thủy đánh bộ;
Trên thực tế, song song cùng với dụ án Dzheiran , trung tâm thiết kế trang bị Hải quân Almaz cũng phát triển xuồng chạy trên đệm khí Skat, có khả năng mang 40 lính thủy đánh bộ với đầy đủ vũ khí trang bị..
Sự phát triển tiếp theo của tàu trên đệm khí Liên bang Xô viết
Vào đầu những năm 70-x các hạm đội của Hải quân Xô viết càng ngày càng mở rộng tầm hoạt động xa bờ biển đất nước. Càng ngày, hạm đội càng nhận nhiều hơn những nhiệm vụ gìn giữ hòa bình, cân bằng lực lượng và hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước đang bị đè nén bởi chủ nghĩa đế quốc.
Nhưng những chiến dịch cần có sự tham gia của lính thủy đánh bộ, các tàu chạy trên đệm khí như Skats và Dzeiran không thể cùng tham gia hải trình do tầm hoạt động không đủ xa. Giải pháp được đặt ra là bố trí nhiều xuồng đổ bộ cao tốc trong hầm tàu của một tàu lớn.
Đô đốc, Tổng tư lệnh lực lượng Hải quân xô viết nguyên soái Gorskov ra chỉ lệnh phát triển loại tàu đổ bộ hạng nặng này. Dự án mang tên Kalmar, trên thiết kế tàu được áp dụng các trống hướng gió, làm tăng cường hiệu suất phản lực của các cánh quạt tuốc bin mà không phải tăng đường kính của cánh quạt gió. Dzheiran, Skats, Kalmar là những tàu đệm khí đầu tiên của thế hệ các tàu chạy trên đệm khí.
Cuối những năm 70x , ranh giới của mặt trận chiến tranh lạnh đã nằm cắt ngang trên đại dương, các nhà thiết kế tên lửa Xô viết đã thử nghiệm thành công tên lửa hành trình có cánh chống tàu, những tên lửa này buộcngười Mỹ phát triển các tên lửa chống tàu như Harpoon và Tomahawk.
Các chuyên gia hải quân Xô viết đã phát hiện được những điểm yếu của các hệ thống hỏa lực chống tàu. Năm 1973 theo Chỉ lệnh của Tổng tư lệnh lực lượng Hải quân Xô viết, Trung tâm thiết kế trang bị hải quân Almaz đã phát triển các tàu tên lửa hạng nhẹ kiểu Sivutr.
Các tàu tên lửa này trong điều kiện hải trình sẽ chạy với tốc độ khoảng 20 hải lý/h, trong trường hợp chuyển trạng thái chiến đấu phần phía trước của tàu sẽ được hạ màn chắn mềm, động cơ công suất lớn của tàu sẽ nén không khí giữa hai thân tàu, tàu nhanh chóng trở thành chiến hạm trên đệm khí. Trên boong tàu được lắp đặt 8 ống phóng tên lửa chống tàu Moskit.
Nhưng cho đến ngày nay, rất ít người được biết, Trung tâm thiết kế trang thiết bị Hải quân Almaz đã thiết kế một mẫu tàu độc nhât trên thế giới chạy trên đệm khí mang vũ khí tấn công chiến lược (các đầu đạn hạt nhân). Nếu điều này thành hiện thực, các chiến lược gia phương Tây sẽ phải thay đổi quan điểm về chiến lược hải quân.
Năm 1988, tàu đổ bộ trên đệm khí lớp Zubr dự án 12322 chính thức được chuyển giao vào biên chế của lực lượng hải quân Xô viết.
Tàu đổ bộ lưỡng cư trên đệm khí Zubr
Trong thiết kế chế tạo của tàu đệm khí Zubr đã đặt vào đó toàn bộ kinh nghiệm chế tạo các tàu đổ bộ của Trung tâm thiết kế trang thiết bị Hải quân Almaz. Sự xuất hiện tàu đổ bộ lưỡng dụng của Liên bang Xô viết ngay lập tức đã nằm trong tầm ngắm của các chuyên gia quân sự Phương Tây. Các nhà quân sự Hải quân đặt tên nó làPomornik.
Bò rừng “Zubr” trở thành chiến hạm chạy nhanh nhất trên thế giới. Giới hạn tốc độ của nó không ai đoán được, kể cả các nhà thiết kế - chế tạo. Trong các cuộc hành trình thử nghiệm tàu đạt đến tốc độ 70 hải lý/h và đấy không phải là giới hạn cuối cùng.
Tàu đổ bộ đệm khí lớp Zubr bao gồm có thân tàu có dạng góc vuông, là phần chính mang các trang thiết bị trên tàu, trên thân tàuphần sàn tàucó vách ngăn chia thành 3 khoang chính.
Khoang giữa là khoang chứa lực lượng đổ bộ và trang thiết bị vận tải.
Khoang cuối thân tàu là khoang động lực, bao gồm các động cơ chính và các động cơ phụ trợ, trang thiết bị bảo vệ và chống vũ khí hủy diệt lớn, đồng thời là hệ thống trang thiết bị đảm bảo duy trì sự sống và các hoạt động trên tàu.
Khoang ở mũi tàu có khoang riêng dành cho thủy thủ đoàn, các phân đội lính thủy đánh bộ cơ động trên tàu, để duy trì mọi hoạt động công tác và sinh hoạt cũng như nghỉ ngơi, trên tàu được trang bị hệ thống thông gió, làm mát và cách âm.
Tiếp nhận lên tàu và đổ bộ xuống tàu binh lực và vũ khí trang bị thông qua hai cửa lật kiêm sàn cầu ở đuôi tàu và mũi tàu.
Tàu đệm không khí không có bộ phận neo, các tấm đệm mềm vách ngăn không khí đóng vai trò neo đậu khi ở trạng thái không hoạt động sẽ buông rủ xuống và tàu sẽ đậu tại chỗ.
Khi động cơ hoạt động, các tấm đệm vách không khí mềm sẽ được nhấc lên bằng sức ép không khí lên đến 6m so với mặt đất dựa vào lực đẩy của không khí bị nén dưới đáythântàu. Khi 3 động cơ cánh quạt đẩy hoạt động đồng thời với hoạt động của bánh lái gió, tàu có thể chạy với tốc độ rất cao.
Một trong những vị trí thú vị nhất của tàu là buồng lái và trung tâm chỉ huy tàu. không có bánh lái như các tàu thông thường khác, trên tàu lắp bộ phận điều khiển kiểu máy bay, bản thân người lái tàu cũng được gọi là Phi công, và chỉ có 1 người lái.
Tên gọi phi công của người lái có thể nêu lên đặc điểm đặc biệt của điều khiển tàu đệm khí. Do tính cơ động của tàu rất cao đòi hỏi người lái phải có rất nhiều kinh nghiệm và phản ứng nhanh nhạy, chính xác nhằm đảm bảo an toàn cho hải trình.
Từ trung tâm chỉ huy tàu có 5 màn hình TV và các display, các thiết bị điện tử kiểm soát và thông báo mọi hoạt động của bộ phận chuyển động, động cơ nâng và động cơ đẩy thân tàu, trạm nguồn và các trang thiết bị phụ trợ khác.
Một trong những thành tựu nổi bật của tàu đệm khí Zubr (Bò rừng) là tốc độ hải hành rất cao, khả năng vận tải lớn và khả năng cơ động trên mặt nước cũng như trên cạn. Theo khẳng định của các chuyên gia hàng hải, Zubr đã đi trước thời gian rất nhiều năm.
Thực tế các cuộc diễn tập thực binh cho thấy, Zubr thật sự là một mẫu tàu đổ bộ quan trọng trong các hoạt động tác chiến ven bờ và hải đảo, với tốc độ siêu cao, Zubr có thể nhanh chóng tiếp cận khu vực cần đánh chiếm trên một hải trình dài.
Trong giai đoạn từ năm 1985 – 2000. Liên bang xô viết đã đóng 8 tàu đổ bộ đệm khí mẫu Zubr, ba chiếc được giao cho hạm đội Biển đen của Liên bang Nga, những chiếc còn lại theo hiệp định được chia cho hải quân Ucrainalà"Kramatorsk","Gorlovka", "Donetsk", "Donetsk" và "Ivan Bagun".
Hai tàu sau này được hoàn thiện bởi nhà máy đóng tàu More thuộcFeodosia.
Rất đáng tiếc rằng, trong học thuyết quân sự hải quân hiện đại của cả Liên bang Nga và Ucraina đều không có phương hướng sử dụng loại tàu đệm khí hiện đại, có công suất lớn và đắt giá này.
Chính vì vậy, ngày 24 tháng 1 năm 2000 tạiAthens giữa Liên bang Nga, Ucraina và Hy lạp đã ký kết một hợp đồng bán các tàu đổ bộ lớp Zubr cho Hải quân Hy Lạp. Trong vòng hai năm, Athens đã nhận 4 tàu đổ bộ lớp Zubr.
Các tàu được mang tên mới là:«Keffallonia», «Kerkyra», «Kakynthos», «Ithaki». Những chiếc tàu đổ bộ hiện đại này đã đưa hải quân Hy lạp sang một trang sử mới. Người Hy Lạp vô cùng tự hào với những chiếc tàu họ mua được. Hy Lạp đã đưa một chiếc ra trưng bầy trong triển lãm phương tiện vũ khí quân sự tại Athens năm 2000 và tàu đã được nhận Huy chương đồng.
Tàu đổ bộ đệm khí lưỡng cư dự án 12322 Zubr.«Зубр» có: Lượng rãn nước- 480 tấn; Chiều dài - 57,3 m;Chiều rộng - 25,6m; Ngấn nước - 1,5m;
Động lực – ba động cơ tuốc bin khí (động cơ đẩy) M-71 có công suất 36000 sức ngựa, 4 động cơ nén không khí có công suất 24000 sức ngựa.
Tốc độ hải trình cao – 60 hải lý/h; Tầm xa hải trình với tốc độ 60 hải lý/h là 300 hải lý, với tốc độ 50 hải lý/h là 1000 hải lý;
Thủy thủ đoàn theo biên chế: 4 sĩ quan; 27 thủy thủ;
Tàu đệm khí được trang bị khá mạnh mẽ: 2 tên lửa chống tàu 140 mm - МS-227 Ogol (Ngọn Lửa) hoặc có thể lắp các loại tên lửa hành trình khác…; 4 tên lửa phòng không tầm thấp Igla; 2 súng tự động nòng xoay АК-630М ;
“Bò rừng” có khả năng đổ bộ với số lượng lớn
Phương án 1: 3 chiếc xe tăng Т-80 với 80 lính thủy đánh bộ;
Phương án 2: 10 xe thiết giáp BTR;
Phương án 3: Lính thủy đánh bộ đầy đủ trang bị - 360 binh sĩ.
Theo kế hoạch đã được công bố, hiện Hải quân Trung Quốc đang nỗ lực đóng 2 tàu đệm khí Zubr theo thiết kế mua được của Ukraine, 4 chiếc theo đơn đặt hàng sẽ được Nga hoàn thiện trong giai đoạn tới. Như vậy, tương lai gần Trung Quốc sẽ có 6 tàu đệm khí đổ bộ siêu mạnh.
Trịnh Thái Bằng theo InfoNet