Làm gì để chặt đứt mập mờ dòng tiền trái phiếu?

Dữ liệu thời gian thực, chuẩn hóa điều kiện phát hành, siết trách nhiệm ngân hàng và xử lý nghiêm sai phạm… được các chuyên gia xem là chìa khóa khôi phục niềm tin, thiết lập thị trường trái phiếu lành mạnh.

Lời tòa soạn: Diễn biến các vụ án trái phiếu trong quá khứ (Vạn Thịnh Phát, Tân Hoàng Minh) và Kết luận 276 của Thanh tra Chính phủ vừa qua cho thấy tình trạng vi phạm pháp luật trong việc huy động và sử dụng tiền từ trái phiếu doanh nghiệp không chỉ xảy ra tại các doanh nghiệp bất động sản, năng lượng mà còn liên quan nhiều tổ chức tín dụng.

Với dữ liệu thu thập được, VietTimes phác họa bức tranh phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay và nêu các giải pháp để ngăn ngừa tình trạng vi phạm này

Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Đức Toản, CEO EZ Property, cho rằng để khơi thông và phát triển bền vững thị trường trái phiếu, trước hết chính sách phải chặt chẽ ngay từ gốc, tức là điều kiện phát hành. Mỗi doanh nghiệp khi muốn huy động vốn qua trái phiếu cần đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể về năng lực tài chính, minh bạch thông tin và có tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh của ngân hàng. Đây phải là điều kiện tiên quyết, nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư và tránh tình trạng “phát hành dễ dãi” như giai đoạn trước.

Thứ hai, theo ông Toản, dòng tiền từ phát hành trái phiếu phải được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng mục đích huy động vốn. “Không thể có chuyện nói phát hành để đầu tư dự án A nhưng sau đó lại chuyển dòng tiền sang dự án B. Nếu không kiểm soát, niềm tin thị trường sẽ sụp đổ chỉ sau vài vụ đổ vỡ”, CEO EZ Property nhấn mạnh.

Vấn đề thứ ba được ông Toản đặc biệt lưu tâm là bảo vệ quyền lợi của trái chủ. Theo ông, cần ràng buộc trách nhiệm liên đới của các bên trung gian, đặc biệt là ngân hàng.

“Ngân hàng khi tham gia phân phối trái phiếu không thể chỉ thu phí rồi phủi tay. Nếu doanh nghiệp phát hành không trả được nợ cho nhà đầu tư, ngân hàng với tư cách trung gian phải có trách nhiệm liên đới. Chỉ khi đó, thị trường mới xây dựng lại được niềm tin”, ông Toản nói cho biết trước đây, nhiều nhà đầu tư nghĩ rằng trái phiếu do ngân hàng phát hành, trong khi thực tế các tổ chức tín dụng chỉ đóng vai trò môi giới cho doanh nghiệp.

“Sự mập mờ này khiến nhiều người nhầm lẫn, nghĩ rằng đang đầu tư an toàn, trong khi thực tế rủi ro rất cao. Do đó, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình là yếu tố sống còn để khôi phục niềm tin”, CEO EZ Property nói thêm.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính – Ngân hàng của Trường Đại học Nguyễn Trãi, cho rằng những bất ổn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp không chỉ đến từ doanh nghiệp phát hành, mà còn nằm ở hậu kiểm lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát chủ động.

Ông Huy chỉ ra 3 điểm yếu then chốt dẫn đến những rủi ro trên thị trường trái phiếu, bao gồm: Doanh nghiệp công bố thông tin thiếu chiều sâu, dễ bị “làm đẹp”; Chưa tách bạch tài khoản sử dụng vốn trái phiếu nên cơ quan quản lý khó theo dõi dòng tiền thực; Nhà đầu tư cá nhân yếu về phân tích rủi ro, dễ bị cuốn theo cam kết lợi nhuận cao.

Để khắc phục tình trạng này, ông Nguyễn Quang Huy cho rằng cần bắt buộc doanh nghiệp mở tài khoản chuyên biệt tại ngân hàng giám sát; chỉ giải ngân khi có chứng từ hợp lệ. Thiết lập cơ chế giám sát độc lập với quyền tạm dừng giải ngân khi phát hiện dấu hiệu bất thường.

Ngoài ra, cần xây dựng nền tảng giám sát số, kết nối dữ liệu doanh nghiệp – ngân hàng – cơ quan quản lý theo thời gian thực, và kiểm toán định kỳ việc sử dụng vốn, không chỉ về tài chính mà về mục đích huy động.

“Khi doanh nghiệp coi minh bạch là vốn, nhà đầu tư coi hiểu biết là sức mạnh, và cơ quan quản lý coi dữ liệu là công cụ giám sát, thị trường mới bền vững”, CEO Khoa Tài chính – Ngân hàng của Trường Đại học Nguyễn Trãi nói.

Là chủ tọa nhiều vụ đại án kinh tế, ông Trương Việt Toàn, nguyên Phó chánh tòa hình sự TAND TP Hà Nội, cho biết tình trạng doanh nghiệp phát hành trái phiếu rồi sử dụng vốn sai mục đích xuất phát từ lỗ hổng của thị trường tài chính Việt Nam. “Từ tài sản đảm bảo, tài sản thế chấp, mục đích phát hành đến quy trình hậu kiểm đều lỏng lẻo, tạo kẽ hở cho doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn rồi sử dụng sai mục đích”, ông Toàn phân tích.

Đáng chú ý, sau khi tổ chức trái phiếu phát hành xong, dòng tiền thu về từ nhà đầu tư gần như không được kiểm soát. Hầu hết doanh nghiệp sử dụng sai mục đích, đem tiền đi trả nợ, thay vì đầu tư đúng như phương án công bố dẫn đến không trả lãi cho các nhà đầu tư, thậm chí không tất toán khi trái phiếu đến hạn.

Ông Toàn cho rằng pháp luật hiện hành đang thiên về bảo vệ tổ chức phát hành trái phiếu hơn là nhà đầu tư, vì hiếm thấy vụ việc nào bị khởi tố hình sự, trừ những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như vụ Tân Hoàng Minh.

“Nếu doanh nghiệp sử dụng sai mục đích, công bố thông tin gian dối để huy động vốn, thì bản chất là hành vi lừa đảo. Chỉ cần chiếm đoạt từ 5 triệu đồng trở lên đã có thể khởi tố vụ án hình sự. Vấn đề là cơ quan pháp luật có chủ động vào cuộc hay không”, ông Toàn nêu quan điểm và đề nghị cần siết lại điều kiện phát hành, kiểm soát chặt dòng tiền sau phát hành, đồng thời thiết lập chế tài đủ mạnh để răn đe.

Ở góc nhìn khác, luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, trọng tài viên VIAC, cho rằng cần xem xét khách quan và toàn diện vi phạm liên quan trái phiếu. Luật sư nói nhiều công ty làm ăn nghiêm túc, huy động vốn trái phiếu để phục vụ sản xuất kinh doanh, song quá trình triển khai dự bị ách tắc pháp lý thì không phải lỗi của doanh nghiệp. Tình cảnh đó buộc doanh nghiệp phải tìm cách tối ưu hoá việc sử dụng dòng vốn trái phiếu để có thể giảm thiểu thiệt hại, bảo đảm hiệu quả đồng vốn và nghĩa vụ trả nợ.

Khác biệt với doanh nghiệp, nghề của ngân hàng là kinh doanh vốn thông qua 2 hoạt động chính là huy động và cho vay. Theo ông Trương Thanh Đức, việc hòa nguồn tiền trái phiếu vào dòng vốn chung là cần thiết, không gây ra nguy cơ vì trái phiếu ngân hàng an toàn như tiền gửi ngân hàng. “Pháp luật cứ máy móc bắt ngân hàng phải tuân thủ như doanh nghiệp theo kiểu đồng này phải mua mắm, đồng kia phải mua tương, thì cần phải xem lại quy định”, ông Đức nói.

Theo luật sư điều quan trọng nhất là doanh nghiệp, ngân hàng bảo đảm được dòng tiền hoạt động, đầu tư, sinh lời và trả nợ đúng hạn cho trái chủ. Vì vậy, việc xem xét quản lý sử dụng vốn trái phiếu phải nhìn từ thực tế khách quan dòng vốn của nền kinh tế bao nhiêu năm qua. Cũng là sai phạm, nhưng cần phân biệt giữa vi phạm tốt khác với vi phạm xấu, sai bất đắc dĩ khác với sai cố tình, hành vi lách luật khác với hành vi phạm luật, làm không đúng vì cực chẳng đã sẽ khác với làm không đúng vì gian dối, làm vì lợi ích chung khác với mong muốn vì tư lợi, hậu quả thiệt hại khác với hậu quả chiếm đoạt.

Ông Trương Thanh Đức cũng cho rằng trường hợp cố tình sử dụng vốn sai trái, lợi dụng, lừa đảo chiếm đoạt, gây hậu quả nghiêm trọng không thể khắc phục thì vẫn phải xử lý nghiêm minh. Còn trường hợp có thể giải trình, biện minh ít, không chiếm đoạt tiền của trái chủ, thì chỉ nên nhắc nhở, cảnh báo, khắc phục, không hình sự hoá quan hệ kinh tế, dân sự.

Giám đốc Công ty Luật ANVI cho rằng trong việc xem xét, quản lý việc sử dụng vốn trái phiếu của tổ chức phát hành, Nhà nước không nên tham vọng phải luôn bảo đảm chắc thắng cho nhà đầu tư, mà chỉ nên đặt mục tiêu bảo đảm an toàn một cách tương đối cho thị trường vốn dĩ quá nhiều rủi ro, buộc phải chấp nhận.

“Trái phiếu doanh nghiệp là kênh đầu tư rủi ro hơn nhiều so với trái phiếu và tiền gửi ngân hàng. Nhà đầu tư phải xác định rõ rủi ro và chấp nhận rủi ro khi rót tiền vào trái phiếu doanh nghiệp. Vấn đề chỉ là hành lang pháp lý phải rõ ràng để ai cũng hiểu luật chơi. Chống lừa đảo, gian dối, chứ đừng chống rủi ro”, luật sư Trương Thanh Đức nêu quan điểm.