Ngày 18 tháng 8, Syria tiếp nhận 6 chiếc tiêm kích đánh chặn tầm cao MiG-31 từ Nga. Trong kho vũ khí có khả năng thay đổi chiến trường ngoài 2 hệ thống tên lửa bờ biển Bastion, quân đội ông Assad đã sở hữu loại tiêm kích đánh chặn vượt thời gian, có khả năng vô hiệu hóa tên lửa hành trình Tomahawk và tất nhiên, bóp nát từ trong trứng ý đồ lập vùng cấm bay trên bầu trời Syria với âm mưu hỗ trợ lực lượng đối lập lật đổ chính quyền Bashar al-Assad.
Việc sở hữu dòng máy bay tiêm kích MiG-31 có từ thời kỳ Liên Xô, được sản xuất từ năm 1975 - 1994 khiến những quan chức diều hâu của liên minh chống nhà nước Syria thất vọng thê thảm.
Vậy chiếc MiG tưởng chừng như đã lỗi thời này có những công nghệ gì khiến phương Tây khiếp đảm như vậy?
Tiêm kích MiG-31 hai người lái siêu âm (định danh NATO: Foxhound) là máy bay thế hệ 4 đầu tiên của Ngacó khả năng tuần tiễu dài thời gian trên khu vực được giao và có tiêu diệt các mục tiêu có kích thước nhỏ như tên lửa hành trình, máy bay trực thăng, máy bay phản lực siêu âm và các loại mục tiêu khác ở vùng bán cầu phía trước và phía sau.
Một phi đội 4 chiếc MiG-31 có khả năng quản lý không phận với bình diện rộng từ 800 - 900 km, đồng thời cũng có thể vào vị trí máy bay chỉ huy.
Những tính chất đặc trưng của MiG
Tiêm kích MiG - 31 Liên bang Xô viết có những tính năng kỹ chiến thuật đặc trưng siêu việt bao gồm cả tốc độ hành trình, trên thế giới cho đến nay chưa có loại máy bay nào tương đương. Đến thời điểm cuối cùng của thế hệ 4, MiG- 31 là máy bay sản xuất hàng loạt duy nhất thời điểm đó được trang bị radar mảng pha, tương đương như radar trên máy bay F-14, tên lửa lớp “không đối không” tầm xa.
Máy bay tiêm kích MiG-31 |
MiG-31 đã thực tế hóa được khả năng chiến đấu cùng với nhiều máy bay và tên lửa hành trình của đối phương, với tốc độ siêu âm có thể đánh chặn được máy bay đối phương đang cất hạ cánh trên sân bay.
MiG-31có thể thực hiện các nhiệm vụ ở chế độ độc lập, tương tác với hệ thống chỉ huy bay kỹ thuật số tầm xa hoặc ở chế độ hỗ trợ tọa độ (chế độ bán tự động), hoặc hoạt động trong phi đội 4 máy bay cùng chủng loại hoặc các loại máy bay có trong biên chế của Không quân Nga như MiG - 23, MiG - 25, MiG - 29, Su - 27, Su- 15, chế độ trao đổi thông tin tự động kỹ thuật số giữa các máy bay trên khoảng cách đến 200 km.
MiG-31 có khả năng dẫn đường các máy bay có hệ thống trang thiết bị điện tử - radar cũ và công suất thấp hơn, trong trường hợp này MiG-31 đóng vai trò máy bay chỉ huy trên không.
MiG -31 nếu so sánh với máy bay tiêm kích đánh chặn MiG -25P có những đặc điểm khác như thay đổi cấu trúc thiết kế cánh, tăng thể tích hệ thống dự trữ dầu và sử dụng các thùng dầu phụ dung lượng lớn, sử dụng một phần nhỏ các chi tiết bằng thép không rỉ.
Máy bay đánh chặn MiG - 31 được thiết kế theo cấu hình khí động học thông thường với cánh bay hình tam giác nhọn, hai cánh đuôi hình mũi tên thẳng đứng và cánh đuôi ngang. Máy bay được chế tạo từ các loại kim loại khác nhau trong đó 50% là thép không rỉ, 16 % titan, 33% hợp kim nhôm, 1% - các vật liệu khác.
Phần đầu của thân máy bay được thiết kế theo nguyên tắc monocoque (thân chịu lực) bằng hợp kim nhôm với đầu mũi máy bay trong suốt với sóng radio bao gồm khoang thiết bị điện tử máy bay, khoang cách ly cabin phi công với hai ghế ngồi thoát hiểm K - 36DM khoang phía sau chứa trang thiết bị.
Khoang lái và hoa tiêu MiG-31 |
Khoang phía trước là của phi công chính, khoang phía sau là của hoa tiêu - xạ thủ. Hai khoang ngăn cách nhau bằng một tấm vách ngăn cách ly kín và các nắp cabin phi công mở lên phía trên, khoang phía sau lắp đặt kính quan sát tiềm vọng, cho phép hoa tiêu - xạ thủ có thể quan sát tốt khi cất, hạ cánh (trên MiG-31 và các nguyên mẫu đời sau không lắp hệ thống kính quan sát tiềm vọng).
Những tấm kính trên của đèn được chế tạo từ thủy tinh hữu cơ chịu nhiệt có độ dày 10mm, tấm chắn đèn cabin được chế tạo từ kính ba lớp với lớp dẫn điện chống đóng băng. Trong các khoang dưới cabin phi công có các block trang thiết bị ngắm bắn và dẫn đường, các bộ khí tài thông tin liên lạc và trang thiết bị điện máy bay.
Phía dưới khoang trang thiết bị là bộ khí tài và khoang chưa bộ càng bánh phía trước. Trên các máy bay nâng cấp hiện đại phía bên trái trước cabin có đầu nạp nhiên liệu trên không.
Phần khoang hàn giữa thân máy bay MiG - 31 là khoang động lực của máy bay, chịu tải lớn nhất, trong khoang có chứa 7 thùng dầu. Phía trên là hệ thống dây cáp và các thanh giằng truyền lực của hệ thống điều khiển, được che bằng các tấm vỏ fairing. Hai bên thân máy bay là ống hút khí có điều chỉnh có mặt cắt vuông chéo ở đầu ống hút. Khối lượng không khí hút vào động cơ, phụ thuộc vào độ cao và tốc độ bay, được điều chỉnh tự động bằng các cánh chớp dưới và tấm của sập.
Phần đuôi máy bay được lắp cánh lái đuôi, thùng containers chứa dù hãm chữ thập (diện tích 50 m2) và khoang tăng tốc động cơ, một số các trang thiết bị của hệ thống điều khiển, hệ thống dầu máy và hệ thống thủy lực trong ba khoang cách nhiệt.
Cánh điều khiển đuôi bao gồm hai cánh đuôi thẳng đứng (góc mở là 8 độ so với mặt phẳng thẳng đứng đối xứng thân máy bay,thiết bị ổn định góc quay máy bay và hai cánh cắt khí động học với góc nghiêng 12o so với mặt phẳng đối xứng. Sống trên thân máy bay cả hai bên đều giống nhau và chỉ khác nhau về các tấm vỏ trong suốt đối với sóng radio của anten.
Khung càng máy bay là hệ thống khung càng 3 bánh xe, bánh xe được thu lại dưới bụng máy bay bằng hệ thống thủy lực, khoảng cách giữa các bánh sau là 3,64 m, khoảng dài khung càng là 7,11 m. Bộ giá càng bánh trước có 2 bánh có kích thước 660х200 mm, gập lại phía sau khi cất cánh được lắp tấm chắn bùn đất nhằm ngăn chặn khả năng rác rưới, bùn đất hoặc các vật thể khác nhau bắn vào trong ống hút khi khi cất hạ cánh. Giá bánh chịu lực chính của máy bay, thu vào thân máy bay khi bay là bộ xe đẩy hai bánh có kích thước 950х300 mm.
Bánh phía sau so với bánh phía trước có lệch ra phía bên ngoài trục dọc của xe đẩy nhằm giảm áp lực lên bề mặt và cho phép máy bay có thể cất cánh được trên những đường băng bằng đất, các cửa khoang chứa bộ giá càng bánh máy bay có tác dụng như phanh hãm bằng lực cản không khí.
Cánh bay 3 trụ dọc hình thang với phần gắn với thân máy bay phình to và góc nghiêng chữ Vso với mép trong cánh là 41o, có các thanh lườn cắt gió khí động học ở phía trên cánh điều khiển, rãnh cánh tà, cánh nhỏ và 4 cánh quay điều hướng mũi. Trục quay cánh điều khiển nghiêng lệch đồng bộ theo độ dốc những khác nhau theo theo trục quay. Góc lệch của cánh nhỏ có độ gấp nhỏ là 20 độ, lườn cánh sau là 30 độ, đầu mũi cánh là 13 độ. Ở phía dưới cánh các tấm phẳng gắn với thân máy bay ở 6 điểm, có những điểm gắn gá của giá treo, có thể có 2 bộ giá treo dưới mỗi cánh.
Hệ thống động lực máy bay
Trên máy bay MiG 31 lắp đặt hai đông cơ nâng cấp cải tiến tiết kiệp nhiên liệu tua bin hai buồng đốt và buồng tăng tốc phản lực loại (tubofan) D-30F6 (9500/15500, sản xuất tại nhà máy Aviadvigatel, thành phố Perm). Lượng dầu trong máy bay là 16350 kg chứa ở 7 thùng dầu trong thân máy bay, 4 ở cánh và 2 ở sống trên máy bay. Trên các giá treo dưới cánh máy bay có thể treo 2 thùng containers dầu có dung tích 2500 lít. Nhiên liệu được nạp tập trung. Các máy bay thế hệ sau này được lắp ống tiếp dầu trên không có thể thu lại được.
Động cơ có 2 buồng trộn nhiên liệu với không khí bên ngoài và phía sau động cơ tuabin, buồng tăng tốc và hệ thống điều khiển cửa phụt khí gas của ống phụt. Hệ thống khí nén năm bậc áp suất thấp, hệ thống khí nén 10 bậc áp suất cao, khoang buồng đốt hình ống và hình vành khăn, tuabinfan hai cấp, cấp áp suất cao và cấp áp suất thấp. Buồng tăng tốc được lắp các đai vành khăn để ổn định cháy nhiên liệu, ống phút siêu âm ở phần mở ra phía sau là các tấm van để điều khiển không khí hút vào và loại trừ các chấn động rung bị gây lên bởi áp lực dòng khí phụt ra ngoài.
Động cơ loại (tubofan) D-30F6 |
Trang thiết bị trên máy bay.
Hệ thống kiểm soát vũ khí (VCS) "Zaslon" (RP-31) bao gồm đài radar BRLS-8B với an ten mảng pha, thiết bị theo dõi dấu vết hồng ngoại đóng mở tự động khi bay 8TK, thiết bị hiển thị ngắm mục tiêu và điều khiển máy bay PPI - 70V, thiết bị nhận biết địch ta và nguồn gốc quốc tịch máy bay. Radar có thể phát hiện và theo dõi cùng một lúc 10 mục tiêu loại (tiêm kích) trên khoảng cách đến 180 km (120km đời đầu), trên MiG - 31DM - đến 320 km trong không gian bán cầu phía trước với góc mở 70 độ góc phương vị mặt phẳng ngang, góc tầm quan sát tại vị trí trên quỹ đạo bay +70 đên -60o.
Radar mảng pha Zaslon |
Máy tính điện tử trên máy bay cho phép cùng một lúc dẫn đường và chỉ thị mục tiêu cho tên lửa “không đối không” R-33 (R-33S) tầm xa tấn công đến 4 mục tiêu quan trọng trong đội hình đối phương. Thiết bị tầm nhiệt trên mũi máy bay hoạt động song song với đài radar ở chế độ thụ động có thể phát hiện mục tiêu trên khoảng cách 50 km, góc phương vị là 60o, góc tầm mặt phẳng thẳng đứng là (+6 - -13) độ, cung cấp thông số chỉ thị mục tiêu cho các đầu tên lửa tự dẫn tầm nhiệt.
Giao diện của phi công |
Khoang phi công - phía trước |
Khoang của hoa tiêu - trắc thủ - phía trước |
Hệ thống thiết bị điều khiển bay và dẫn đường.
Hệ thống điều khiển tự động (ACS-155MP) và hệ thống định vị KN-25 (hai thiết bị dẫn đường quán tính IS-1-72A, máy tính "Maneuver", hệ thống radio dẫn đường tầm xa và tầm gần "Radikal-NP" và “Kvitok-2 “, thiết bị định vị radio "Tropic" và "Marshrut" tương tự như hệ thống "Laurent" và "Omega", đảm bảo chế độ tự động dẫn máy bay đến bất cứ điểm nào trên địa cầu với độ chính xác từ 0,13 đến 4 km.
Máy bay được lắp đặt các bộ khí tài tác chiến điện tử ở các dải tần số radars và các dải tần hồng ngoại, các đài thông tin liên lạc R-862 và R-864 UКV и КV, thiết bị đăng ký thông số bay "Tester-UZL"thiết bị thông tin âm thanh P-591, thiết bị nhận tín hiệu kiểm soát không lưu ТАК-69, la bàn vô tuyến tự động АРК-15, thiết bị kiểm soát tiếp nhận âm thanh MRP-66, thiết bị đo độ cao radio RV-15, thiết bị ghi nhận các cuộc đàm thoại trong cabin kíp lái MS - 61, thiết bị cảnh báo chiếu xạ radar SPO - 15 SL và các trang thiết bị khác.
Vũ khí trang bị
Súng tự động – Súng tiêu chuẩn (ở phía bên phải thân máy bay) súng tự động 6 nòng GS - 6 - 23M cỡ nòng 23 mm (số lượng đạn 260 viên đạn, tốc độ bắn 6000 phát/phút).
Tên lửa không đối không– 4 tên lửa có điều khiển “Không đối không” tầm xa R-33 (R-33S) được treo nối tiếp và song song trên các giá phóng AKU - 410, khối lượng thuốc nổ 47kg, tầm xa phóng tên lửa bán cầu phía trước - 120 km, tầm cao sử dụng - từ 0,025 km đến 28 km);
2 tên lửa “ Không đối không” R - 40 tầm trung với các đầu đạn tự dẫn radars hoặc đầu đạn tự dẫn hồng ngoại trên những giá phóng dưới cánh máy bay, tầm bắn vùng bán cầu phía trước là 50 km, tầm bắn từ 0,05 km đến 30 km.
4 tên lửa tầm gần “Không đối không” R-60, tầm bắn vùng bán cầu phía trước từ 0,2 km - 8 km. Tầm cao sử dụng từ 0,03 km - 20 km. Tải trọng vũ khí đạt đến 3000 kg treo trên 8 giá treo phía dưới cánh.
Ông Alexander Tarnaev Chủ tịch ủy ban quốc phòng Duma Quốc gia Nga tuyên bố với báo chí rằng trên cơ sở của máy bay MiG - 31 sẽ phát triển máy bay tiêm kích đánh chặn mới MiG - 41: “ Theo quyết định vừa được phê chuẩn của Tổng tham mưu trưởng quân đội Nga, đã triển khai nghiên cứu các hoạt động pháp triển MiG - 41”. Cũng theo chủ tịch Ủy ban, máy bay MiG 41 “bao gồm tất cả nhưng ưu điểm tích cực của MiG - 41.
MiG 31 cắt bổ |
Ngoài ra, sẽ có hàng trăm máy bay MiG - 31 được nâng cấp và đưa trở lại biên chế cho lực lượng Không quân Liên bang, ông Tarnaev nói: “ Chính quyền Liên bang Nga quyết định đưa trở lại biên chế sau sửa chữa lớn máy bay tiêm kích - đánh chặn MiG - 31” “ hàng trăm máy bay này sẽ được sửa chữa và đưa trở lại biên chế lực lượng vũ trang Liên bang”, ông khẳng định.
Anh hùng Nga, phi công thử nghiệm Anatoly Kvochur cho rằng, MiG - 41 phải có tốc độ không thấp hơn 4-4,3 М.Máy bay MiG - 31 có tốc độ khoảng 2,8 M. “Việc nâng cấp phát triển cần phải được thực hiện 20 năm trước, nhưng điều đó đã không xảy ra. Hiện nay đang có những yêu cầu bức thiết về loại máy bay này, một trong nhiêu cầu đó là tốc độ của máy bay tiêm kích đánh chặt phải đạt được tốc độ lớn hơn 4M.
Tính năng kỹ chiến thuật máy bay MiG - 31
Chiều dài: 21,62 m, Sải cánh: 13,45 m, Chiều cao máy bay: 6,50 m; Diện tích cánh::61,60 m², Khối lượng( rỗng : 21820 kg; nạp đủ nhiên liệu: 39150 kg; Tải trọng cất cánh cực đại: 46750 kg; Lượng dầu: 17330 kg.
Trên độ cao 10000m, với M=0,8: 1450 km, không có tiếp dầu trên không với hai bình dầu phụ: 3000 km, với một lần tiếp dầu trên không, tầm xa hoạt động đạt 5400 km. Ở độ cao 18000m, tốc độ là М=2,35: tầm xa hoạt động là 720 Km. Bán kính chiến đấu là : 720 km. Thời gian bay cực đại là 3,3 giờ, trần bay cực đại là: 20600 m.
Trịnh Thái Bằng theo InfoNet