|
Các đại biểu tham dự bàn tròn. Ảnh: Thanh Hương |
Tại bàn tròn lần này, diễn giả đã cùng giải đáp các câu hỏi: Chức năng chính của đại học là gì? Có các mô hình đại học chính nào? Kinh nghiệm về nghiên cứu của mô hình giáo dục Pháp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam?Có cần xây dựng các đại học nghiên cứu mà chức năng chính là nghiên cứu tại Việt Nam?
Và một câu hỏi quan trọng: Làm thế nào để xây dựng các đại học nghiên cứu hiệu quả tại Việt Nam?
Có 3 loại hình nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu ứng dụng (applied research), nghiên cứu cơ bản (basic research), và nghiên cứu/ phát triển thực nghiệm (experimental research). Loại hình thứ 3 chiếm một vị trí quan trọng, trên 60% tổng ngân sách nghiên cứu, tại Mĩ, Nhật, Hàn Quốc, và đặc biệt tại Trung Quốc (trên 80%).Theo các diễn giả, đại học có 2 chức năng chính là giảng dạy và nghiên cứu.
Xếp theo vai trò của nghiên cứu, trên thế giới có 2 loại hình đại học chính. Loại hình thứ nhất là đại học chuyên về giảng dạy và đào tạo. Và loại hình thứ hai là đại học nghiên cứu, với nghiên cứu chiếm một vị trí quan trọng trong các hoạt động giáo dục và đạo tạo.
Hơn 20 tỉ euro cho nghiên cứu
Ngân sách nghiên cứu và phát triển của Pháp phân bổ chủ yếu cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng.
Pháp có một mô hình đào tạo, nghiên cứu khá đặc biệt so với thế giới với: Các cơ quan, tổ chức chuyên về nghiên cứu (và chỉ làm nghiên cứu, không có đào tạo); Các đại học: có 73 trường. Cần chú ý là không phải tất cả 73 trường này đều có nghiên cứu; Các trường lớn chuyên đào tạo ra nguồn nhân lực cao hay chính là giới tinh hoa làm quản lý các cơ quan đầu ngành.
Từ 2007 đến nay, chính sách đưa ra là phải liên kết ba khối này với nhau, đặc biệt là giữa các trung tâm nghiên cứu và trường đại học tạo nên các Đơn vị phối hợp nghiên cứu UMR (Unité mixte de recherche).
Các diễn giả cũng đồng thời chỉ ra một số đặc điểm chung về nghiên cứu tại Pháp.
|
Quang cảnh bàn tròn |
Trước hết là việc phân bổ, gắn kết giữa nghiên cứu và giảng dạy không đồng đều, thiếu gắn kết.
Số lượng người làm nghiên cứu tập trung vào 5 khu đại học lớn như Paris-Saclay, Montpelier, Toulouse, Aix-en-Provence, Paris-Sorbonne. 80% ấn phẩm nghiên cứu khoa học tập trung vào 5 trong số 22 vùng của Pháp, trong đó có Paris và ngoại ô Paris (Ile-de-France). Có những nơi có nhiều hoạt động nghiên cứu nhưng lại ít sinh viên.
Nhiều cơ sở nghiên cứu được đặt tại các trường đại học, nhưng trên thực tế không có liên hệ với hoạt động giảng dạy.
Ngân sách cho nghiên cứu khoảng 20 tỉ euro, chủ yếu đến từ nhà nước, nguồn đến từ doanh nghiệp còn hạn chế (phần lớn để trả lương, thưởng).
Một hình thức đang phát triển là đầu tư cho nghiên cứu trên các hình thức kêu gọi vốn cho dự án. Việc quản lí ngân sách chi tiêu cho nghiên cứu tại các trường đại học gặp nhiều khó khăn.
Một đặc điểm nữa của mô hình nghêin cứu Pháp là việc đánh giá nghiên cứu không diễn ra từ A đến Z, trước và sau khi giải ngân như tại Mĩ.
Thách thức của mô hình Pháp
Theo các diễn giả, hiện nay, những thách thức của nghiên cứu tại Pháp bao gồm các vấn đề như xây dựng một chính sách nghiên cứu quốc gia và khớp nối với các chính sách đơn lẻ của các đơn vị độc lập; Tìm kiếm một mô hình kinh tế mới để có thể đầu tư phát triển cho nghiên cứu tốt hơn nữa, đưa lên tầm cao hơn của thế giới.
“Làm thế nào để tăng sức hấp dẫn của Pháp đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, cũng như thu hút các sinh viên giỏi quốc tế?” cũng là một câu hỏi mà giới nghiên cứu của Pháp đang tìm câu trả lời. Và cả câu hỏi “Nên xóa bỏ hay không những chức danh hay quy chế nghiên cứu riêng biệt?”.
Một thách thức không nhỏ nữa là tạo các liên kết giữa các tổ chức nghiên cứu và các trường đại học hoặc các nhóm (tổ hợp) đại học.
Ngân sách được duyệt trên cơ sở các chính sách chung về nghiên cứu đề ra của các nhóm chung này, thay vì các đơn vị (cơ quan hay đại học) riêng lẻ, trên cơ sở các hợp đồng duy nhất cho mỗi nhóm. Điều đó nhằm tạo ra sự phân bổ hợp lí, đồng bộ hơn trong nghiên cứu. Ngoài ra nhóm lớn được thành lập cũng tạo uy tín và xếp hạng tốt hơn trên trường quốc tế.
Cải tiến phương pháp đánh giá nghiên cứu, không chỉ trên mỗi cá nhân nghiên cứu, mà trong tổng hòa chiến lược chung của một cơ sở nghiên cứu cũng là một đòi hỏi cần phải được giải quyết.
Và phải đánh giá được tác động của nghiên cứu tới kinh tế, và khả năng cạnh tranh của quốc gia.
Đề xuất cho đại học nghiên cứu tại Việt Nam
“Đại học nghiên cứu ở Việt Nam: Liệu có cần thiết?”. Với câu hỏi này, câu trả lời rất rõ ràng là “Có”.
Lý do là có nghiên cứu, mới đổi mới được đào tạo, mới truyền lại các kiến thức mới nhất. Có nghiên cứu mới có thế có đủ kiến thức, và kĩ năng hợp tác trong các dự án nghiên cứu và chuyên ngành quốc tế. Có nghiên cứu mới có thể tạo uy tín cho giáo dục trong cộng đồng quốc tế.
Nếu nhìn trên diện rộng thì thấy mối liên hệ song hành mật thiết giữa nghiên cứu và phát triển công nghệ, các ngành khoa học cơ bản, kinh tế, xã hội.
Với những bài học từ nước Pháp, để phát triển đại học nghiên cứu ở Việt Nam, một số đề xuất đã được đưa ra.
Theo TS. Phan-Labays Thị Hoài Trang (ĐH Jean Moulin Lyon) cần thay đổi “triết lí giáo dục”, giảng dạy về tính cần thiết của nghiên cứu ngay trong những năm đầu của đại học. Định hướng nghiên cứu và giảng dạy phương pháp nghiên cứu. Ngay trong cách học, cũng tăng cường “tìm tòi nghiên cứu trong việc học” thay vì thụ động trong kiến thức giảng viên truyền lại.
Tạo ra những mô hình giảng viên mới, những giảng viên nghiên cứu, mà số giờ giảng dạy được giảm bớt để có thời gian cho nghiên cứu và đăng tải các công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế. Các chính sách tuyển dụng dài hạn, hoặc theo hợp đồng nghiên cứu những nhà khoa học thế giới cần linh hoạt.
|
Ông Verhaeghe Damien và bà Kallenbach Sacha |
Còn theo các thanh tra giáo dục của Bộ Giáo dục Pháp, ông Verhaeghe Damien và bà Kallenbach Sacha, cần tạo những tổ hợp với những chính sách nghiên cứu chung.
Với việc nguồn lực của Việt Nam còn hạn chế, để phát triển ý tưởng này, có lẽ bước đầu nên tập trung đầu tư mạnh một số nhóm trường - ví dụ ĐHQG Hà Nội, nơi qui tụ nhiều đại học nhỏ - để nâng cao uy tín và vị thế lên tầm quốc tế.
Cũng theo hai vị diễn giả này, về nguồn tài chính, ngoài nguồn nhà nước cấp, cần có chính sách và chiến lược hợp tác nhằm huy động được đầu tư từ các doanh nghiệp.
Theo: VietnamNet