Toàn thế giới đang nỗ lực tìm ra các biện pháp làm chậm đà lây lan của virus corona chủng mới và tìm ra những biện pháp điều trị hữu hiệu. Tính đến ngày 20/3, trên thế giới đã có 86 cuộc thử nghiệm lâm sàng về cách điều trị COVID-19 hoặc chủng vaccine ngừa virus corona chủng mới. Mỗi ngày lại có thêm những loại thuốc mới được thử nghiệm.
Các loại thuốc được thử nghiệm rất đa dạng: Từ những cách điều trị bệnh cúm, các loại thuốc từng thất bại trong điều trị virus Ebola, cho tới thuốc chống sốt rét đã được điều chế từ nhiều thập kỷ trước.
Sau đây là một số phương pháp điều trị mà các bác sĩ hy vọng một ngày nào đó sẽ giúp thế giới chống lại virus corona chủng mới.
Thuốc trị cúm Nhật Bản
Thuốc trị cúm Favipiravir của Nhật Bản (Ảnh: NYPost)
|
Một loại thuốc đang được công ty Fujifilm Toyama Chemical của Nhật phát triển đã cho ra những kết quả đầy hứa hẹn trong việc điều trị các triệu chứng nhẹ hoặc trung bình của bệnh COVID-19.
Loại thuốc chống virus có tên là Favipiravir, hoặc Avigan, này đã từng được sử dụng để điều trị cúm ở Nhật, và trong tháng trước, nó được phê chuẩn để thử nghiệm điều trị COVID-19.
Đến nay, một số báo cáo cho thấy loại thuốc này đã được thử nghiệm trên 340 người ở Vũ Hán và Thâm Quyến (Trung Quốc). “Nó có độ an toàn cao và rõ ràng là một phương pháp điều trị hiệu quả” – Zhang Xinmin, chuyên gia về khoa học và công nghệ Trung Quốc, nói vào ngày 17/3, theo hãng tin Guardian của Anh.
Loại thuốc này ngăn chặn một số loại virus nhất định nhân bản, và dường như rút ngắn thời gian tồn tại của virus, đồng thời cải thiện sức khỏe của phổi của các bệnh nhân được thử nghiệm. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chính thức vẫn chưa được đăng tải trên các tạp chí y khoa.
Chloroquine và hydroxychloroquine
vafSuwj kết hợp giữa Chloroquine và hydrochloroquine đang gây chú ý trong giới khoa học (Ảnh: Forbes)
|
Chloroquine và hydroxychloroquine đã được Cục An toàn thực phẩm và Thuốc men (FDA) của Mỹ phê duyệt để điều trị sốt rét, bệnh luput và viêm khớp dạng thấp, nhưng một nghiên cứu sơ bộ trên tế bào người và động vật linh trưởng cho thấy các loại thuốc này có thể điều trị hữu hiệu COVID-19.
Một nghiên cứu năm 2005 phát hiện ra rằng chloroquine có thể chế ngự sự lây lan của virus SARS-CoV khi tiêm vào tế bào người được nuôi cấy. SARS-CoV là chủng virus có họ gần với virus corona chủng mới (SARS-CoV-2), và từng gây ra dịch SARS vào năm 2002. Chloroquine làm suy giảm khả năng thâm nhập và nhân bản trên thế bào người của SARS-CoV, theo Live Science. Nghiên cứu về SARS-CoV-2 trên tế bào người cho thấy loại thuốc này khi kết hợp với hydrochloroquine ức chế được sự nhân bản của virus corona chủng mới theo cách tương tự.
Các bác sĩ ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ hiện đang sử dụng loại thuốc này để điều trị một số bệnh nhân mắc COVID-19 và đến nay đã mang lại những kết quả đầy hứa hẹn. FDA dự định sẽ tổ chức một cuộc thử nghiệm lâm sàng chính thức đối với loại thuốc này.
Tính đến ngày 23/2, đã có 7 cuộc thử nghiệm lâm sàng được đăng ký tại Cục đăng ký Thử nghiệm lâm sàng Trung Quốc với mục đích tìm hiểu xem có thể chữa COVID-19 bằng hydroxychloroquine hay không. Thêm vào đó, ĐH Minnesota cũng đang nghiên cứu xem liệu hydroxychloroquine có thể bảo vệ một người khỏi bị lây COVID-19 từ bệnh nhân khác hay không.
Trong một nghiên cứu gây chú ý nhất, được thực hiện ở Pháp, một nhóm nhỏ bệnh nhân mắc COVID-19 được dùng thuốc hydrohloroquine hoặc hydrochloroquine kết hợp với một thoại kháng sinh có tên Azithromycin. Các tác giả chỉ ra rằng các ổ virus SARS-CoV-2 đã giảm đáng kể nếu so với các bệnh nhân không được dùng hỗn hợp thuốc. Đối với 6 bệnh nhân được dùng thuốc kết hợp với Azithromycin, hiệu quả điều trị còn rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, Trung tâm Kiểm soát và Ngăn chặn dịch bệnh (CDC) Mỹ nhấn mạnh rằng nghiên cứu trên “không đánh giá được lợi ích lâm sàng” của phương pháp điều trị. Nói cách khác, nghiên cứu này chưa làm rõ được rằng liệu bệnh nhân được điều trị có phục hồi hay sống sót khỏi bệnh COVID-19 hay không.
CDC cũng khuyến cáo các y bác sĩ nên thận trọng khi cho bệnh nhân có các bệnh mãn tính sử dụng hỗn hợp thuốc này, ví dụ như các bệnh nhân mắc suy thận hay đặc biệt là “những người đang điều trị bằng các loại thuốc có thể gây loạn nhịp tim”.
Thuốc điều trị Ebola
Công ty Gilead Sciences, hãng chế tạo thuốc Remdesivir (Ảnh: China Daily)
|
Một loại thuốc do công ty Gilead Sciences điều chế để điều trị những người nhiễm virus Ebola, có tên là Remdesivir, hiện đang được thử nghiệm để xem có điều trị được COVID-19 hay không.
Loại thuốc này từng được đánh giá là không hiệu quả trong điều trị Ebola, nhưng trong các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, nó lại được chứng minh là hiệu quả trong việc ngăn chặn đà phát triển của các chủng virus tương tự, như virus gây dịch SARS và MERS. Trên đĩa cấy trong phòng thí nghiệm, Remdesivir có thể bảo vệ tế bào người khỏi bị nhiễm SARS-CoV-2, theo một nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí khoa học danh tiếng Nature hồi tháng 2.
FDA hiện cho phép sử dụng Remdesivir như một biện pháp điều trị cuối cùng, có nghĩa rằng chỉ những bệnh nhân mắc COVD-19 rất nặng mới được phép dùng thuốc này. Ở các nước khác, quy định về sử dụng Remdesivir có thể đỡ nghiêm ngặt hơn.
Hiện đang có 5 cuộc thử nghiệm lâm sàng ở Mỹ và Trung Quốc đang diễn ra để đánh giá xem Remdesivir có tác dụng trong điều trị COVID-19 như thế nào.
Nhiều bác sĩ tỏ ra hết sức lạc quan về triển vọng của loại thuốc này.
“Chỉ có duy nhất một loại thuốc mà chúng tôi nghĩ là thực sự có hiệu quả” – Bruce Aylward, thuộc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), phát biểu hồi tháng trước – “Và đo là Remdesivir”.
George Thompson – chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Trung taamY tế UC Davis, người từng điêùtrị một ca COVID-19 nặng – nói với tạp chí Science rằng bệnh nhân của ông có tiến triển sau khi dùng thuốc Remdesivir, trong khi trước đó nhiều bác sĩ tin rằng bệnh nhân này sẽ qua đời.
Tuy nhiên, những bằng chứng nhỏ lẻ này chưa thể chứng minh tính hiệu quả của thuốc, và phòng thí nghiệm nọ cũng chưa phân tích mẫu máu để chứng minh tình trạng bệnh nhân được cải thiện sau khi dùng thuốc Remdesivir. Thêm vào đó, một nghiên cứu chưa chính thức được công bố đăng tải trên chuyên trang y khoa medRXiv đã chỉ ra 3 trường hợp bệnh nhân được dùng thuốc Remdesivir. Nghiên cứu chỉ ra rằng hông có mối quan hệ (phụ thuộc thời gian) giữa việc dùng thuốc và chứng kiến các triệu chứng nhẹ dần. Các bệnh nhân cũng chịu một số tác dụng phụ như chảy máu trực tràng, enzyme gan tăng, nôn mửa và buồn nôn.
Ngày 22/3, công ty Gilead Sciences đã tuyên bố sẽ tạm ngừng việc sử dụng Remdesivir cho những ca bệnh nặng, do “nhu cầu quá cao”. Thay vào đó họ sẽ tập trung vào việc phê chuẩn những dề nghị được dùng thuốc từ trước, cùng lúc hướng dẫn người dân đăng ký tham gia các cuộc thử nghiệm lâm sàng.
Kết hợp thuốc điều trị HIV
Thuốc điều trị HIV Kaletra (Ảnh: Daily Mercury)
|
Thuốc chống virus Kaletra – sự kết hợp giữa Lopinavir và Ritonavir – trước đây cũng thu hút sự chú ý của giới y bác sĩ về khả năng điều trị COVID-19. Tuy nhiên, dữ liệu mới từ Trung Quốc, được đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine hôm 18/3, chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu không nhận thấy hiệu quả gì sau khi cho bệnh nhân dùng thuốc.
Trong tổng số 199 người có mức oxy trong máu thấp được lựa chọn ngẫu nhiên để thử Kaletra hoặc giả dược. Trong khi một vài người uống Kaletra đã tử vong, sự khác biệt của những người dùng thuốc là không đáng kể. Cả hai nhóm cuối cùng đều có mật độ virus trong máu như nhau.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác vẫn đang diễn ra, và vẫn có khả năng sự loại thuốc này có thể mang lại lợi ích nào đó trong điều trị COVID-19.
Thuốc ức chế miễn dịch và thuốc viêm khớp
Thuốc Actemra của hãng dược phẩm Roche (Ảnh: Inrater)
|
Đối với một số bệnh nhân mắc COVID-19, virus corona chủng mới không gây ra nhiều tổn hại cho cơ thể họ. Trong khi, ở một số bệnh nhân khác, hệ miễn dịch của họ bị rơi vào tình trạng quá tải và tung ra một “đòn tấn công toàn lực”có tên gọi là cơn bão Cytokine. Điều này có thể gây tổn hại mô và gây tử vong.
Và để ngăn chặn cưn bão Cytokine, các bác sĩ hiện đang thử nghiệm một loại thuốc ức chế miễn dịch có tên Actemra, hay tocilizumab. Thuốc này được phê duyệt để điều trị viêm khớp dạng thấp. Thuốc ngăn chặn một cơ quan thụ cảm của tế bào nắm giữ interleukin 6 (IL-6). IL-6 là một Cytokin, hay một loại protein được hệ miễn dịch tung ra.
Ngày 19/3, công ty dược Roche tuyên bố sẽ tổ chức một cuộc thử nghiệm để xem liệu tocilizumab có thể cải thiện tình trạng viêm phổi ở các bệnh nhân mắc COVID-19 hay không. Một nhóm bệnh nhân sẽ được dùng thuốc kèm theo các đợt điều trị tiêu chuẩn, trong khi một nhóm khác sẽ nhận giả dược kèm điều trị tiêu chuẩn.
Thuốc huyết áp
Các nhà khoa học đã thực hiện 2 cuộc thử nghiệm thuốc Losartan trong điều trị COVID-19 (Ảnh: CGTN)
|
Losartan là một loại thuốc huyết áp được sử dụng rộng rãi mà nay một số nhà khoa học đang hy vọng có thể giúp các bệnh nhân mắc COVID-19. ĐH Minnesota đã thực hiện 2 cuộc thử nghiệm lâm sàng sử dụng loại thuốc có giá rẻ này. Cuộc đầu tiên đánh giá xem Losartan có thể ngăn chặn sự hủy hoại các cơ quan nội tạng do virus corona chủng mới gây nên hay không. Cuộc thứ hai đánh giá xem thuốc có thể giúp bệnh nhân đỡ phải nhập viện điều trị hay không; theo Reuters.
Losartan vận hành bằng cách chặn một cơ quan thụ cảm,hay cánh cửa dẫn vào bên trong các tế bào mà một chất hóa học có tên angiotensin II sử dụng để thâm nhập tế vào và làm tăng huyết áp. Virus corona chủng mới gắn kết với cơ quan thụ cảm của enzyme chuyển đổi angiotensin (ACE2), và một số nhà khoa học tin rằng, do Losartan chặn các cơ quan thụ cảm như vậy nên nó có thể ngăn chặn virus corona chủng mới thâm nhập vào tế bào.
Mọi chuyện phức tạp hơn khi vào ngày 11/3, một bản nghiên cứu đăng tải trên tạp chí The Lancet chỉ ra khả năng rằng các loại thuốc chữa huyết áp cao, như chất ức chế ACE và cái gọi là các chất chặn cơ quan cảm thụ của angiotensin (ARBs) – trong đó có Losartan – có thể giúp cơ thể người sản sinh ra nhiều ACE2 hơn, bởi vậy mà càng khiến virus thâm nhập vào tế bào nhiều hơn.
Một nghiên cứu mới đây thực hiện trên 355 bệnh nhân mắc COVID-19 ở Italy chỉ ra rằng ¾ số bệnh nhân tử vong đều bị cao huyết áp, và các tác giả bản nghiên cứu cho rằng đây là một lý do khiến họ có tỷ lệ tử vong cao hơn.