Mỹ đã chi một khoản ngân sách rất lớn nhằm phát triển chương trình “Đòn tấn tấn công thần tốc toàn cầu” Prompt Global Strike – PGS”, đây là hệ thống công kích bằng vũ khí phi hạt nhân, cho phép tiêu diệt mục tiêu ở bất cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu trong thời gian giới hạn 1 giờ.
Một hệ thống PGS có hiệu quả cao trong một xung đột hạt nhân, có khả năng thay thế các loại vũ khí hạt nhân tấn công đến 30 phần trăm các mục tiêu quan trọng. Chương trình PGS tích hợp nhiều công nghệ hiện đại , bao gồm cả tên lửa đạn đạo thông thường mang đầu đạn tên lửa siêu thanh, tên lửa siêu thanh phóng từ máy bay, và cho đến nay chưa có hệ thống PGS cụ thể nào được hoàn thiện.
Tên lửa siêu thanh tránh được các tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo thông thường. Tên lửa đạn đạo xuyên qua khí quyển trên một quỹ đạo dự đoán được – tên lửa tốc độ siêu thanh bay với quỹ đạo khiến việc đánh chặn vô cùng khó khăn. Từ cuối năm 1980, nhiều nước bắt đầu phát triển tên lửa đánh chặn tên lửa đạn đạo. Nhưng đầu đạn tên lửa siêu thanh lượn như HGV có thể bay lên sau khi xuyên qua tầng khí quyển và tiếp cận mục tiêu của mình theo một đường lượn tương đối bằng phẳng, làm giảm thời gian phát hiện và đánh chặn, hoặc (nếu đòn đánh ban đầu không thành công) tái đánh chặn. Khả năng lướt làm cho đầu đạn linh hoạt hơn và mở rộng phạm vi chiến đấu.
Chương trình có tên gọi DARPA Falcon Project (Falcon HTV-2). Số lượng các loại vũ khí này trong kho vũ khí chiến lược Mỹ ngày càng tăng. Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Quốc phòng, đến giữa thập kỷ này trong biên chế sẵn sàng chiến đấu của Washington sẽ có từ 1500 đến 1800 tên lửa hành trình tốc độ siêu thanh sử dụng phương tiện mang trên không và trên biển, nhằm mục đích giáng những đòn công kích chính xác tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trong loạt phóng đạn đầu tiên. Đến năm 2020 số lượng này có thể tăng đến 2500 – 3000 đơn vị.
Đầu đạn siêu thanh dự án DARPA Falcon Project
Mỹ nỗ lực tích hợp hệ thống “đòn tấn công thần tốc toàn cầu” với hệ thống phòng thủ vũ trụ và hệ thống phòng thủ tên lửa để hình thành một siêu hệ thống. Dưới lá chắn của hệ thống tấn công và phòng thủ toàn cầu, vũ khí tiến công chiến lược của các cường quốc, bao gồm cả vũ khí hạt nhân trở thành vô dụng.
Các đòn tiến công của Mỹ với thời gian rất ngắn, sẽ đánh trúng các mục tiêu – phương tiện mang chiến lược, số lượng không đáng kể các tên lửa được phóng lên sẽ bị bắn hạ bởi lá chắn hạt nhân tầm xa. Với hệ thống siêu tấn công – phòng ngự này, người Mỹ dự kiến sẽ làm lệch cán cân chiến lược toàn cầu và khu vực châu Á về phía Mỹ, đẩy khả năng phản kích hoặc tấn công của của các nước khác trở thành nhỏ nhất hoặc bằng không trong các tình huống đặc biệt nghiêm trọng và dồn nén không gian chiến lược của đối phương ở mức nhỏ nhất, bao quanh biên giới các nước không thân thiện.
Điều này đẩy các nước sở hữu vũ khí tiến công chiến lược vào tình huống khó khăn: hoặc họ mất hoàn toàn khả năng phản kích đối phương bằng vũ khí chiến lược, hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân ồ ạt tấn công trước để tránh bị hủy diệt.
Một câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ là đối thủ chính trong chiến lược siêu phòng ngự này, trong danh sách đen của Mỹ sẽ có các nước như: Iran, Bắc Triều Tiên, Nga, Trung Quốc. Với Iran, vấn đề hoàn toàn chưa rõ ràng, Bắc Triều Tiên trên thực tế tiềm lực tấn công bằng vũ khí hạt nhân khá nhỏ do công nghệ phát triển chưa đủ mạnh. Hai cường quốc được Mỹ chú trọng hơn là Nga và Trung Quốc.
Sơ đồ thử nghiệm Falcon HTV trên Thái Bình Dương
Liên bang Nga với lực lượng vũ trang có hệ thống hỏa lực phòng không mạnh nhất thế giới và đã từng được thử thách. Trong thời gian Chiến tranh lạnh đã xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ vũ trụ thành các tuyến phòng thủ rất mạnh, được trang bị các hệ thống tên lửa như S – 400, S-400M, các tổ hợp phòng thủ tên lửa tầm trung và tầm gần “Tor” và “Amur” thuộc hệ thống phòng không thành phố Moscow A- 135.
Hệ thống phòng thủ đa tầm, rộng khắp và dày đặc này có thể bẻ gẫy mọi đòn tấn công từ trên không ngay từ ngoài biên giới nước Nga. Nếu Mỹ muốn tấn công nước Nga bằng các tên lửa siêu thanh, thì toàn bộ châu Âu sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Đây là điều Mỹ hoàn toàn không mong muốn. Ngược lại, Liên bang Nga có thể phản kích rất nhanh bằng các hệ thống tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa phóng từ tàu ngầm trực tiếp vào nước Mỹ, với đòn tấn công tầm trung và các tên lửa đạn đạo ngày nay, lá chắn tên lửa Mỹ vô dụng.
Như vậy, nếu xét trên khía cạnh chiến lược tấn công và phòng ngự theo phương án thống trị 3 không gian chiến lược -- vũ trụ, trên không và trên biển-- tính toán đến những khả năng và sự trỗi dậy của Trung Quốc cùng với những tuyên bố và chính sách đối ngoại quốc phòng của nước này, có thể thấy rõ, theo các chuyên gia, tên lửa siêu thanh hypersonic như X-41, X-51 đang nhằm vào Trung Quốc.
Cùng với sự ngạc nhiên của các chuyên gia quân sự thế giới trong lĩnh vực phòng thủ, các tướng lĩnh và nhà khoa học Trung Quốc quan tâm nhiều đến hệ thống phòng thủ tên lửa và nhận thấy nguy cơ bị tấn công tầm xa bằng những đòn công kích đầu đạn siêu thanh. Một số chuyên gia nhận xét, Trung Quốc đang đứng trước những lựa chọn khó khăn. Từ một hướng, khoa học công nghệ quốc phóng không có khả năng xây dựng một hệ thống phòng thủ tích cực và hiệu quả. Từ góc độ khác, nếu như Trung Quốc đầu tư xây dựng hệ thống, các nước khác sẽ phát hiện ra hạn chế đồng thời làm lộ bí mật các hầm phòng ngầm của tên lửa đạn đạo
Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ các đầu đạn tấn công gắn trên tên lửa Đông Phong DF – 21 định hướng tấn công tàu sân bay; số lượng các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân cũng như đầu đạn thông thường của Trung Quốc hiện cũng ở mức khá lớn. Riêng 2 lữ đoàn tên lửa DF – 21 được sử dụng để đẩy lùi tàu sân bay của Mỹ ra khỏi tuyến phòng thủ biển khơi thứ 1 của Trung Quốc, điều này đã đặt cho Mỹ nguy cơ khó lòng bảo vệ các căn cứ của mình trên Okinawa cũng như đảo Guam, các đồng minh của Mỹ ở khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ bị sức ép nặng nề từ hải quân Trung Quốc mà Mỹ không thể có tàu sân bay để giải quyết khủng hoảng nếu xảy ra.
Từ những căn cứ tính toàn về khả năng công kích tầm rất xa tiêu diệt các trận địa tên lửa bằng vũ khí phi hạt nhân siêu thanh (loại vũ khí phá hủy bằng động năng như X-41 hoặc Falcon HTV) cho phép Mỹ có thể công kích các trận địa của PLA ngay khi mới triển khai đội hình tác chiến, đồng thời có thể công kích mọi điểm trên lãnh thổ Trung Quốc với thời gian ngắn hơn rất nhiều lần tên lửa Trung Quốc tiếp cận mục tiêu.
Đòn công kích bằng nhiều phương tiện mang PGS với tầm bay nhiều nghìn km tấn công các hệ thống tên lửa đạn đạo
Với tốc độ bay siêu thanh từ thượng tầng khí quyền, vật thể bay được cấu tạo để bay theo cơ chế lướt trên không khí với góc dốc xuống không lớn gây khó khăn cho các loại tên lửa phòng không tầm cao, tầm trung và hoàn toàn không thể bị bắn hạ ở tầm gần. Đầu đạn động năng chắc chắn được chế tạo từ vật liệu siêu bền sẽ tăng khả năng chịu đựng các đầu đạn phòng không. Ngoại trừ cơ chế phá hủy bằng động năng thì khả năng tiêu diệt đầu đạn rất khó. Cũng chưa có loại tên lửa nào của Trung Quốc có khả năng đánh chặn, ngay cả trường hợp Trung Quốc mua của Nga tên lửa S – 400, điều mà họ đang hy vọng.
Sơ đồ đường bay tấn công của Falcon HTV-2
Cho đến khi Trung Quốc có thể có được một hệ thống phòng không tầm xa và dày đặc như của Liên Bang Nga, thì Mỹ đã phát triển PGS đến mức các đầu đạn PGS có tốc độ bay từ 5 – 6 M cho đến gần 20 M, không có hệ thống tên lửa nào đánh chặn được, ngoại trừ S-500 hoặc các tên lửa thế hệ sau cao hơn nữa có tầm phòng không đến hàng nghìn km. Đó có thể là chuyện của Trung – Mỹ sau năm 2020 trong vòng xoáy chạy đua vũ trang mới trên Thái Bình dương.
Không chấp nhận chịu những đòn tấn công tầm xa bằng tên lửa siêu thanh, Bắc Kinh lựa chọn phương án thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình nghiên cứu phát triển đầu đạn siêu thanh. Nguồn gốc công nghệ nền tảng chưa rõ ràng, hoàn toàn có thể từ các hackers Trung Quốc, những PLA đã nhanh chóng đuổi kịp và vượt Mỹ.
Tên lửa siêu thanh Trung Quốc (HGV), Lầu Năm Góc định danh là WU-14, được đưa vào không gian bằng các tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM), sau đó các đầu đạn siêu thanh quay trở lại bầu khí quyển và lướt đi với tốc độ lên tới Mach 10, thử nghiệm được tiến hành ở Trung Quốc vào ngày 09.01.2014 theo công bố của Bộ Quốc phòng Trung Quốcc ở Bắc Kinh, Bill Gertz đã trình bày chi tiết động thái này trên Washington Free Beacon.
Ngày 19.01, một đầu đạn khác cũng được thử nghiệm tại cơ sở không gian tương tự tại Thái Nguyên, theo nhà phân tích Richard Fisher của Trung tâm Đánh giá và Chiến lược Quốc tế ở Washington. Cho đến tháng 07.06.2015, Trung Quốc cũng đã 4 lần liên tiếp thử đầu đạn tên lửa siêu thanh vào tháng 1, tháng 8, tháng 12 năm ngoài và 1 lần vào năm nay.
Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba sau Liên bang Nga và Hoa Kỳ thử nghiệm thành công tên lửa siêu thanh có khả năng mang đầu đạn hạt nhân với tốc độ trên Mach 10 - 12.359 km mỗi giờ (7.675 mph). Trung Quốc cũng đang phát triển một phiên bản động cơ tên lửa đẩy siêu thanh scramjet để có thể phóng tên lửa có thể được phóng từ máy bay hoặc mặt đất.
Mỹ X-51A tên lửa siêu thanh gắn vào cánh của một máy bay ném bom B-52
Nguyên mẫu WU-14 có thể được trang bị cho nhiều tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, ví dụ như tên lửa tầm trung DF-21 tầm trung tên lửa ( được gọi là DF-26 với đầu đạn HGV), và tên lửa đạn đạo liên DF-31 và DF-41 liên lục địa, gia tăng phạm vi công kích từ 2.000 km (1.200 dặm) đến 3.000 km (1.900 dặm), từ 8.000 km (5.000 dặm) đến 12.000 km (7.500 mi) tương ứng. Các nhà phân tích chiến lược cho rằng WU-14 đầu tiên sẽ được sử dụng ở tầm ngắn như một tên lửa chống tàu và cho các mục đích chiến thuật khác như tấn công mục tiêu di động là một tên lửa đạn đạo. Mục tiêu tầm xa hơn có thể bao gồm các nhiệm vụ như chặn tên lửa đạn đạo Mỹ hoặc tấn công các mục tiêu trên đất Mỹ hoặc nước khác. Các tên lửa đánh chặn thông thường không thể đánh chặn loại mục tiêu này do sẽ phát hiện phát hiện muộn và khó có thể đánh trúng khi vật thể bay với tốc độ hơn Mach 5 (WU-14 lướt trong khí quyển với tốc độ Mach 10).
Những minh chứng sau đây buộc nước Mỹ phải đặt trọng tâm vào việc phát triển vũ khí năng lượng định hướng công suất lớn như là một biện pháp ngăn chặn và tiêu diệt các mục tiêu siêu thanh này.
Thứ nhất : các tạp chí nghiên cứu của Trung Quốc bắt đầu các cuộc thảo luận tổng hợp về chiến lược và các hệ thống vũ khí nước ngoài, những thuật toán và phương pháp sử dụng để nghiên cứu công nghệ nền tảng.
Thứ hai, các tạp chí làm việc với các nhà nghiên cứu Quân đội Giải phóng nhân dân đã xác nhận sự thay đổi vũ khí chiến lược đang diễn ra.
Thứ ba, những xu hướng này cũng xuất hiện trong bài báo khoa học nghiên cứu tìm hiểu độc lập của Trung Quốc về hệ thống boostglide (đầu đạn bay lượn được phóng từ tên lửa đẩy và bay trong thượng tầng khí quyển với tốc độ siêu thanh), thiết kế động cơ scramjet (biến thể của động cơ phản lực sử dụng không khí ramjet mà quá trình nhiên liệu cháy xảy ra trong luồng không khí siêu thanh) khi thảo luận về đòn tấn công thần tốc toàn cầu. Các nghiên cứu đã minh chứng cho nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm chủ công nghệ sản xuất hai loại động cơ tên lửa đẩy siêu âm và siêu thanh. Thực hiện tham vọng trên, các chuyên gia Bắc Kinh đang kết hợp công nghệ siêu thanh và công nghệ đạn lướt khi mô hình hóa quỹ đạo bay của các hệ thống vật bay siêu thanh và động cơ scramjet.
Bản chất của vấn đề là các chuyên gia Trung Quốc đang tìm cách kết hợp các công nghệ để tạo ra hệ thống vũ khí mới. Với quan điểm có trọng tâm, tập trung đáng kể vào sự phát triển công nghệ không gian, hàng hải, lĩnh vực hạt nhân, không gian mạng, các phương tiện tác chiến khác, đồng thời đi sâu nghiên cứu phá hoại những hệ thống của Mỹ tương tự. Nhìn chung, nghiên cứu này cho thấy phương thức và lý do tại sao Trung Quốc không chỉ tìm cách theo đuổi phát triển các hệ thống vũ khí tiên tiến tương tự, mà còn phát triển vượt Mỹ trong lĩnh vực có thế mạnh và tiềm năng.
Như vậy dù là nước đầu tiên phát triển các đầu đạn trong chương trình “Đòn tấn công thần tốc toàn cầu”, Mỹ lại thua sút so với Trung Quốc. Có thể giải thích được, do sự suy giảm nguồn ngân sách quốc phòng trong thời kỳ này, hoặc công nghệ của Trung Quốc kém hơn so với Mỹ, nhưng rõ ràng có các đầu đạn siêu thanh dùng để tấn công, và Bắc Kinh có thể tấn công với số lượng lớn.
Trong quá trình đàm phán vấn đề giảm thiểu vũ khí tiến công chiến lược, Mỹ cần nhanh chóng hoàn thiện công nghệ vật thể bay siêu thanh, các đầu đạn này có thể lắp đặt trên các phương tiện mang các đầu đạn phi hạt nhân, điều đó đã giúp Mỹ giảm một khoản ngân sách khổng lồ cho phòng thủ tên lửa, đồng thời thúc đẩy chương trình phát triển hệ thống vũ khí “ Đòn tấn công thần tốc toàn cầu” siêu thanh - supersonic.
Thực tế cho thấy, trang bị vũ khí thông thường sẽ rơi vào thế yếu hơn so với Mỹ; để tránh bị tổn thương và gây sức ép, Trung Quốc thường hướng đến phương pháp tăng tốc độ nghiên cứu và chế tạo tương đương. Điều này được coi là biện pháp đáp trả, nhưng hậu quả là trạng thái ổn định chiến lược của thế giới và sự ổn định ở châu Á bị tổn thất nghiêm trọng.
Hy vọng duy nhất mà Mỹ có thể làm được là sử dụng tối đa bộ máy nghiên cứu khoa học siêu cao cấp của mình để phát triển không chỉ các tên lửa supersonic mà còn phải phát triển các loại vũ khí theo công ước quốc tế, nhưng có thể đóng vai trò răn đe thay thế được vũ khí hạt nhân hoặc ngăn chặn vô hiệu hóa các loại vũ khí tấn công chiến lược trong đó có vật thể bay siêu thanh.
Những nghiên cứu phát triển tiên tiến của Mỹ, rất nhanh chóng chuyển thành những phiên bản copy không giấy phép nhằm chống lại chính nước Mỹ và đồng minh. Vũ khí siêu thanh đã và đang trở thành tâm điểm của cuộc chạy đua vũ trang mới.