Một đánh giá thực tế về cán cân sức mạnh trên bán đảo Triều Tiên, cũng như các lực lượng có thể được các đồng minh có khả năng điều động đến cũng sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về những động lực của Triều Tiên trong việc phát triển khả năng răn đe hạt nhân thực tế. Có phải là ban lãnh đạo Triều Tiên xa rời thực tế như truyền thông phương Tây và chính phủ Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc muốn người ta tin? Hoặc giả việc sở hữu vũ khí hạt nhân có phải là cách tốt nhất để Triều Tiên ngăn chặn một cuộc tấn công bởi một liên minh của những kẻ thù mạnh hơn nhiều hay không?...
Theo giới quan sát, trong khi Triều Tiên sở hữu quân đội lớn thứ tư trên thế giới về quân số, nhưng quân đội Triều Tiên vẫn đang được trang bị các hệ thống vũ khí được sử dụng đầu tiên từ những năm 1950 và 1960. Bên cạnh đó, lực lượng thông thường của Triều Tiên đã không theo kịp với sự đổi mới công nghệ đã có ảnh hưởng và định hình sự phát triển các hệ thống vũ khí.
Hàn Quốc đã chớp lấy những đổi mới công nghệ và phát triển một khả năng quân sự hiện đại, mạnh mẽ trong khi các lực lượng của Triều Tiên vẫn ở tình trạng tụt hậu. Điều này cũng đúng đối với Nhật Bản và Mỹ. Để bù đắp sự yếu kém về vật chất kỹ thuật, Triều Tiên đã ngày càng đi theo hướng phát triển phương tiện và khả năng phi đối xứng, cũng như tăng cường đầu tư vào việc phát triển, mua sắm vũ khí hạt nhân và phát triển một hệ thống phương tiện mang phóng tin cậy những vũ khí này.
Chiến lược quốc phòng
Triều Tiên đã cơ bản duy trì cùng một chiến lược quân sự trên bán đảo kể từ khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, căn cứ vào cán cân sức mạnh quân sự thay đổi theo hướng Hàn Quốc ngày càng chiếm ưu thế, chiến lược này đã được sửa đổi nhiều lần. Phần lớn các lực lượng mặt đất của Triều Tiên đang được triển khai ở tuyến trước, gần với khu phi quân sự (DMZ). Điều này giảm thiểu chi phí hậu cần, do các đơn vị sẽ không phải thay đổi vị trí trong trường hợp quyết định tiến đánh Hàn Quốc hoặc để thực hiện các chiến dịch tiến công hạn chế trên biên giới.
Việc triển khai phía trước của quân đội Triều Tiên cũng buộc Hàn Quốc luôn phải duy trì lực lượng ngăn chặn lớn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao dọc theo ranh giới phía nam của DMZ. Mối đe dọa tiến công thường xuyên từ phía bắc cũng khuếch đại ảnh hưởng của bất kỳ hành động đe dọa xuất phát từ Bình Nhưỡng.
Hiệu quả của việc triển khai phía trước một số lượng lớn lực lượng mặt đất của Triều Tiên, trong đó có sự tập trung cao độ các đơn vị pháo binh cỡ nòng lớn mà phần lớn trong số đó là pháo kéo và không tự hành, đã trở thành một câu hỏi trong những năm gần đây. Việc triển khai một phần lớn lực lượng mặt đất của Triều Tiên mà nhiều trong số đó có sức cơ động hạn chế, cũng như khoản đầu tư lớn trong nhiều thập kỷ cho một mạng lưới công trình phòng thủ cố định khiến cho các lực lượng này dễ bị đánh vu hồi nhanh chóng bằng các chiến dịch đổ bộ đường biển và đường không. Có thể ban lãnh đạo Triều Tiên đã rút ra bài học này trong chiến tranh Triều Tiên, khi họ bị đánh tạt sườn bằng chiến dịch đổ bộ ở Inchon. Chiến dịch này là bước ngoặt then chốt dẫn đến thất bại hoàn toàn của Triều Tiên và họ chỉ thoát khỏi sự thất bại hoàn toàn nhờ Trung Quốc tham chiến (kháng Mỹ viện Triều).
Mặc dù khá phụ thuộc vào sức mạnh quân sự Mỹ sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt và trong hầu hết chiến tranh lạnh, Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều nguồn lực kinh tế cho hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc và ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào lực lượng vũ trang Mỹ. Trong khi Hàn Quốc duy trì một cách khôn ngoan mối quan hệ quân sự chặt chẽ với Mỹ và quan hệ quân sự ngày càng tăng với Nhật Bản kể từ thời ông Shinzo Abe trở thành Thủ tướng. Họ cũng sử dụng nhiều hệ thống vũ khí có khả năng tương thích với các hệ thống radar, truyền tin và các hệ thống chỉ huy chiến đấu của hai đồng minh này.
Hải quân Hàn Quốc đang sử dụng hệ thống Aegis và có thể phối hợp với các tàu khu trục tên lửa của cả Hải quân Mỹ và Hải quân Phòng vệ Nhật Bản (JMSDF) trong ngắm bắn và tiêu diệt các tên lửa hành trình và máy bay hoặc các tàu chiến mặt nước khác. Mặc dù vẫn còn gần 30.000 quân Mỹ đồn trú tại Hàn Quốc, quân đội Hàn Quốc đã ngày càng trở nên tự chủ trong việc bảo đảm phòng thủ đất nước. Công nghiệp vũ khí nội địa đã sản xuất nhiều xe thiết giáp và hệ thống vũ khí hiện đại và uy lực mạnh, thậm chí cả máy bay. Công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc dẫn đầu thế giới về trọng tải đóng tàu và cũng đã đóng được nhiều tàu chiến hiện đại thuộc các lớp khác nhau. Trong khi ở phía bắc bán đảo Triều Tiên vẫn vận hành một nền kinh tế trì trệ, thì ở phía nam là một cường quốc kinh tế, một nền kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới tính theo GDP.
Quân đội Mỹ-Hàn tập trận chung
Xe tăng của quân đội Hàn Quốc
Không quân Hàn Quốc có ưu thế lớn về chất lượng so với đối thủ phía bắc. Điều quan trọng nhất là các phi công Hàn Quốc có số giờ bay cao xa nhiều đối thủ của họ và được huấn luyện bay chiến đấu sát thực tế. Ước tính các phi công Triều Tiên có 20-25 giờ bay/năm, trong khi phi công Hàn Quốc có ít nhất 130-150 giờ bay/năm. Trong khi Seoul trang bị cho phi đoàn tiêm kích và các phi đoàn không quân chiến thuật của họ các tiêm kích hiện đại thế hệ 3, 4, thì Bình Nhưỡng vẫn phải dựa vào các máy bay tiêm kích và máy bay tiến công chủ yếu được phát triển trong thập niên 1960. Mặc dù mạnh mẽ và tin cậy, nhưng một chiếc MiG-21 không thể sánh với một chiếc F-15K hoặc F-16C trong không chiến.
Một lĩnh vực mà Hàn Quốc đã tụt hậu trong bảo đảm khả năng quốc phòng của mình là lĩnh vực phòng thủ tên lửa đạn đạo (BMD). Việc triển khai mới đây một đại đội phòng thủ tên lửa THAAD của Mỹ là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy, mặc dù Triều Tiên đã đạt được tiến bộ trong quá trình phát triển vũ khí hạt nhân cỡ nhỏ hơn có thể mang phóng bằng một tên lửa đạn đạo tin cậy, Hàn Quốc có vẻ chẳng làm được gì mấy để đối phó với mối đe dọa ngày càng tăng này.
Hàn Quốc đã không làm gì nhiều để phát triển các tên lửa phòng không tầm trung đến tầm xa đủ mạnh vì Không quân Triều Tiên hiện nay là mối đe dọa nhỏ hơn bất cứ lúc nào khác nếu nổ ra xung đột. Hàn Quốc đang vận hành 8 đại đội tên lửa phòng không MIM-104 Patriot PAC-II. Họ có kế hoạch nâng cấp các hệ thống này lên chuẩn PAC-III trong khi tiếp nhận triển khai nhiều hơn các đại đội THAAD trong tương lai gần.
Lực lượng mặt đất
Khi so sánh sức mạnh của lực lượng mặt đất của mỗi nước, nếu quá chú trọng vào tổng quân số đàn ông và phụ nữ mặc quân phục sẽ không thể đánh giá chính xác sức mạnh, chất lượng hay khả năng cơ động. Sở hữu 1 triệu quân là một chuyện, nhưng số quân đó được huấn luyện tốt đến đâu, có thể di chuyển nhanh thế nào trên chiến trường hiện đại, họ có các phương tiện nhân bội sức mạnh nào, hệ thống chỉ huy và kiểm soát lực lượng đó có hiệu quả ra sao, và thê đội hậu cần có tầm quan trọng bao trùm bảo đảm cho lực lượng đó có khả năng đến đâu và khả năng thích ứng thế nào? Trong khi Triều Tiên có thể đưa ra trận số quân nhiều hơn, họ so sánh thế nào với các đối thủ phía nam của họ?
Quân đội Triều Tiên
Quân đội nhân dân Triều Tiên có tổng quân số thường trực xấp xỉ 1,2 triệu quân, với thêm 600.000 quân dự bị. Ngoài ra, còn có Hồng vệ binh công-nông với khoảng 6 triệu người tổ chức thành một lực lượng bán quân sự. Điều này có nghĩa là khoảng 1/4 tổng dân số Triều Tiên được tiếp nhận hình thức huấn luyện và làm quen với hoạt động quân sự nào đó và có thể được động viên trong tình huống khẩn cấp quốc gia. Các đơn vị này nhiều khả năng được trang bị vũ khí hạng nhẹ cũ hơn, ít đạn dược và trang bị nên giá trị chiến đấu rất thấp.
Nếu không có sự chỉ đạo của ban lãnh đạo chế độ và hệ thống tổ chức quân sự định hướng theo chiều dọc, việc chỉ huy và kiểm soát một lượng lớn các binh sĩ “công-nông” sẽ là không thể đối với chế độ, và thực sự có thể dẫn đến việc một bộ phận các lực lượng này nổi loạn chống lại nhà nước trong thời gian có chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp quốc gia, đặc biệt là khi tầng lớp lãnh đạo cấp cao của chế độ ở Bình Nhưỡng bị tiêu diệt bằng đòn tiến công chặt đầu thành công.
Bộ binh và bộ binh cơ giới
Đại đa số các đơn vị của quân đội Triều Tiên được xếp là đơn vị bộ binh hoặc bộ binh nhẹ. Thê đội phòng ngự đầu tiên gồm 4 quân đoàn bộ binh là các quân đoàn lục quân I, II, IV và V. Mỗi quân đoàn gồm 4 sư đoàn bộ binh, ngoại trừ quân đoàn lục quân II chỉ có 3 sư bộ binh. Các binh đoàn bộ binh này nắm giữ một số hệ thống đường hầm và boong-ke nằm dọc theo DMZ cực kỳ kiên cố và ở độ sâu lớn. Bốn quan đoàn được hỗ trợ bởi quân đoàn pháo binh độc lập là quân đoàn pháo binh 620.
Nằm ở phía sau các quân đoàn bộ binh là 2 quân đoàn bộ binh cơ giới hóa (các quân đoàn cơ giới hóa 806 và 815) và 1 quân đoàn thiết giáp (quân đoàn thiết giáp 820), cấu thành thê đội phòng ngự thứ hai. Mỗi quân đoàn cơ giới gồm 5 lữ đoàn bộ binh cơ giới. Các đơn vị cơ động này có thể phản ứng nhanh chóng để tăng cường cho khu vực hiểm yếu trên tiền duyên, nhanh chóng khai thác các cơ hội tiến công phát sinh và phản công khi cần thiết. Các đơn vị này là thê đội phòng ngự thứ hai mạnh mẽ và tạo thành lực lượng dự bị cơ động hùng mạnh có thể tăng cường cho phòng ngự hoặc dẫn đầu một cuộc phản công.
Tên lửa đạn đạo mới của Triều Tiên được cho là có tầm bắn có thể vươn tới lãnh thổ Mỹ
Xe tăng của quân đội Triều tiên
Thê đội phòng ngự thứ ba gồm 3 quân đoàn bộ binh (các quân đoàn lục quân III, VII và XII), mỗi quân đoàn có từ 2-3 sư bộ binh. Ngoài ra, trong biểu tổ chức và biên chế của 3 quân đoàn này còn có 8 sư bộ binh dự bị. Các quân đoàn bộ binh này được hỗ trợ bởi 1 quân đoàn pháo binh độc lập (Quân đoàn pháo binh Kangdong). Ngoài ra, Bình Nhưỡng có ít nhất 4 lữ đoàn bộ binh được giao nhiệm vụ bảo vệ thủ đô và đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh phòng thủ Bình Nhưỡng.
Thê đội phòng ngự thứ tư gồm 4 quân đoàn bộ binh (các quân đoàn lục quân VIII, IX, X và XI), và 2 quân đoàn bộ binh cơ giới hóa (các quân đoàn cơ giới hóa 108 và 425). Mỗi quân đoàn lục quân có ít nhất 2 sư bộ binh, còn mỗi quân đoàn cơ giới hóa được biên chế 5 lữ bộ binh cơ giới và có thể là cả một số lữ bộ binh nhẹ. Các đơn vị này được triển khai cách xa khu vực DMZ, nhưng được giao nhiệm vụ bảo vệ biên giới với Trung Quốc và hầu hết đường bờ biển dài phía đông, giáp biển Nhật Bản.
Xe bọc thép chở quân bánh lốp M-2010 6×6 của Triều tiên, biến thể của BTR-80 của Liên Xô.M-2010 được sản xuất nhiều hơn ở biến thể 8×8 |
Nga làm thế vì nhiều lý do, chủ yếu là chính trị (tôn trọng các quy định của LHQ) và cũng là để giảm thiểu việc sản xuất trái phép và bán vũ khí sao chép của Nga. Các loại vũ khí bộ binh mà Triều Tiên sao chép vũ khí Nga có tính năng kém hơn nguyên bản, nhưng họ cũng có các vũ khí sao chép khá tốt để làm vũ khí tin cậy và hiệu quả trang bị cho các lực lượng tiền tuyến và dự bị của Quân đội nhân dân Triều Tiên.
Các đơn vị bộ binh cơ giới hóa được tổ chức thành 4 quân đoàn bộ binh cơ giới, trong đó 2 quân đoàn được bố trí trong phạm vi cách DMZ 100 km. Các xe bọc thép trang bị cho các đơn vị cơ giới hóa tất cả đều là xe nhập khẩu từ Trung Quốc và Liên Xô, hoặc các loại xe tương tự do Triều Tiên tự sản xuất. Đa số xe bọc thếp trang bị cho các quân đoàn cơ giới hóa là BTR-60 và BTR-80 của Liên Xô hoặc biến thể sao chép nội địa của chúng là M-2010 (sản xuất theo 2 biến thể 6×6 và 8×8), hoặc Type-63 của Trung Quốc. Type-63 đã được Triều Tiên sao chép và sản xuất với tên gọi là VTT-323.
Triều Tiên cũng đã phát triển Type-63 thành xe tăng lội nước hạng nhẹ BT-85, và sử dụng các bộ phận, linh kiện của cả M-2010 và BT-85 vào xe bọc thép chở quân Chunma-D (Model-2009). Xe chiến đấu bộ binh duy nhất trong quân đội Triều tiên là BMP-1 của Liên Xô với tên gọi là Korshun. Quân đội Triều Tiên không có một loại xe chiến đấu bộ binh hiện đại ngang tầm với các xe của Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản hay Mỹ.
Xe bọc thép chở quân Chunma-D của Triều Tiên. Đây là thiết kế nội địa dựa trêncả xe bọc thép chở quân BTR của Nga (tháp pháo) và Type-63 của Trung Quốc |
Lực lượng tăng-thiết giáp
Có lẽ ví dụ rõ ràng nhất về mức độ tụt hậu của Triều Tiên về công nghệ các hệ thống vũ khí thiết giáp là lĩnh vực thiết kế xe tăng chủ lực. Quân đội Triều Tiên có hàng ngàn xe tăng trong các đơn vị thường trực, cũng như hàng ngàn chiếc dự trữ. Các xe tăng chủ lực ở tuyến 1 tất cả đều dựa trên các thiết kế T-55 và T-62 của Liên Xô, là các xe tăng được thiết kế và đưa vào trang bị từ thập niên 1950 và 1960.
Xe tăng chủ lực hiện đại nhất trong trang bị của Triều Tiên là Pokpung-ho. Pokpung-ho rõ ràng là được chế tạo dựa trên cả T-62 và T-72, nhưng được cải tiến nhiều và có một số nâng cấp quan trọng. Pokpung-ho có khung gầm của T-62 được kéo dài, một số điểm tương đồng ở thân xe với T-72, lắp thêm các tấm giáp phản ứng nổ (nâng cấp Pokpung-ho III) và lắp thêm các tấm giáp composite cho mặt trước tháp pháo. Các Pokpung-ho II và III dường như được trang bị một pháo nòng trơn 125mm, trong khi tất cả các biến thể trước đó được trang bị một pháo chính 115mm. Quân đội Triều tiên hiện có khoảng 500-1.000 xe tăng Pokpung-ho thuộc tất cả các biến thể, và 1.000 xe tăng Chonma-ho (dựa trên T-62M).
Ngoài ra, trong biên chế còn có 2.500 xe tăng chủ lực khác, kể cả số xe tăng trong lực lượng tăng-thiết giáp dự bị. Số xe chủ yếu thuộc các loại T-62M, T-55 và Type-59. Ngoài ra, quân đội Triều Tiên còn duy trì hàng trăm xe tăng hạng nhẹ lội nước của Liên Xô và do Triều Tiên sản xuất, nhiều khả năng là để tăng cường cho đội tàu đổ bộ cổ lỗ của Hải quân nhân dân Triều Tiên. Cũng có khả năng một số lượng đáng kể tăng T-34-85 vẫn đang được cất giữ trong các kho dự trữ.
Các xe tăng chủ lực Pokpung-ho III trong cuộc duyệt binh ở Bình Nhưỡng. Trên tháp xe có lắp 1 hệ thống tên lửa phòng không mang vác và 2 tên lửa chống tăng có điều khiển, thân và mặt trước tháp xe được lắp thêm giáp bảo vệ tăng cường
Theo VND