|
Ảnh vệ tinh chụp chiếc AWACS của Triều Tiên hôm 3/3/2025. Ảnh: QQnews. |
So với một máy bay cùng loại được chụp tại cùng địa điểm hồi tháng 12/2023, chiếc Il-76MD này có một mảng radar khổng lồ được lắp ở trên lưng trông nổi bật. Rõ ràng, đây là máy bay cảnh báo sớm (AWACS) đầu tiên được Triều Tiên tự chủ phát triển.
Quá trình phát triển AWACS của Triều Tiên
Xét về lịch sử phát triển, chiếc máy bay AWACS của Triều Tiên lần đầu tiên được phát hiện tại sân đỗ Sân bay quốc tế Sunan tháng 12/2023. Vào thời điểm đó, chỉ chụp ảnh được kết cấu ở trên lưng chiếc máy bay vận tải Il-76MD phù hợp đặc điểm của một máy bay AWACS, không có bức ảnh nào khác phản ánh chi tiết hoán cải máy bay và cũng không rõ liệu Triều Tiên có các cơ sở phụ trợ cho quá trình hoán cải hay không.
Chiếc máy bay AWACS này lại xuất hiện trong bức ảnh chụp ngày 3/3/2025, tức là sau 1 năm 3 tháng. Phân tích từ hai bức ảnh, chiếc máy bay chụp tháng 3/2025 dường như đã được hoán cải xong.
Hệ thống radar đã được lắp đặt, toàn bộ máy bay dường như đã được sơn lại. Có thể thấy rõ ràng chiếc máy bay AWACS đầu tiên của Triều Tiên có thiết kế ăng-ten radar ba mặt. Hiện vẫn chưa rõ liệu nó vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm trên mặt đất hay đã thực hiện chuyến bay đầu tiên rồi.
Những tính năng đáng chú ý
Đánh giá từ bức ảnh vệ tinh của chiếc AWACS cỡ lớn này, hiện tại không có nhiều thông tin chi tiết. Ví dụ, không thấy được phần đầu nó và liệu nó có tích hợp ăng-ten ESM lắp đặt ở đầu hay hai bên thân không. Đây là tiêu chí quan trọng để xem xét mức độ tiên tiến, độ tích hợp và đa dụng của thiết bị.
Nhưng từ những gì có thể nhìn thấy cũng đã đủ đáng sợ - đường kính của mảng radar hình đĩa trên lưng chiếc AWACS của Triều Tiên lớn hơn đường kính mảng radar của máy bay cảnh báo sớm KJ-2000 của Trung Quốc, cũng được hoán cải từ Il-76, tới gần 2 m.
Mảng radar càng lớn thì càng có nhiều mô-đun T/R được lắp đặt. Mô-đun T/R càng nhiều, công suất, khả năng tản nhiệt, năng lượng và khả năng xử lý nền tăng dẫn đến khả năng phát hiện mục tiêu sẽ mạnh hơn.
Đối với máy bay cảnh báo sớm A-50U của Không quân Nga, đường kính mảng radar của nó nhỏ hơn hẳn chiếc AWACS Triều Tiên. Nếu Triều Tiên có thể có được một số thành phần T/R tốt và có thuật toán tốt hơn thì khả năng phát hiện của chiếc AWACS này sẽ được đảm bảo.
Có thể thấy chiếc AWACS Triều Tiên sử dụng thiết kế mảng radar ba mặt với đường kính rất lớn. Thậm chí có thể tương đương với radar của máy bay cảnh báo sớm A-100 mới nhất của Nga. Trình độ công nghệ của nền tảng này không rõ ràng và không rõ liệu nó có khả năng ESM/ECM hay không. Ngoài chi tiết dễ thấy này, các thông số kỹ thuật và tính năng của máy bay cảnh báo sớm Triều Tiên vẫn còn bí ẩn.
Triều Tiên đã giải quyết được các vấn đề công nghệ?
Câu hỏi trực tiếp nhất là, Triều Tiên lấy các cấu kiện T/R của máy bay cảnh báo sớm ở đâu? Bộ thu tín hiệu RF và bộ xử lý được giải quyết như thế nào?
Trình độ công nghệ ngành bán dẫn của Triều Tiên rõ ràng chưa đủ mạnh, và trình độ công nghệ bán dẫn của Nga cũng chẳng khá hơn là bao. Cho đến nay, chỉ có một nguyên mẫu máy bay cảnh báo sớm A-100 sử dụng radar mảng pha đang bay, cho thấy nó không thể được sản xuất hàng loạt.
Vậy trong trường hợp này, máy bay cảnh báo sớm của Triều Tiên đã giải quyết như thế nào các thành phần RF đầu cuối quan trọng nhất, các thành phần thu đầu cuối và các thuật toán thu và công nghệ xử lý tín hiệu quan trọng nhất?
Câu hỏi tiếp theo là Triều Tiên giải quyết vấn đề hệ thống servo cảnh báo sớm của máy bay như thế nào? Máy bay cảnh báo sớm có mảng radar lớn và công suất truyền cao nên cả nguồn cung cấp điện và tản nhiệt đều là những thách thức rất lớn. Người ta đã xác nhận rằng Triều Tiên không thay thế động cơ của chiếc IL-76. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là Triều Tiên đã giải quyết vấn đề cung cấp điện cho AWACS của họ như thế nào trong khi vẫn tiếp tục sử dụng công suất phát điện của 4 động cơ D-30KP-2.
Tương tự như vậy đối với vấn đề tản nhiệt. Mảng radar càng lớn, công suất truyền càng cao, nhiệt sinh ra càng lớn. Triều Tiên đã lắp đặt một mảng radar lớn như vậy trên máy bay AWACS, lượng nhiệt sinh ra phải rất lớn. Do đó, cách thiết kế hệ thống làm mát cũng là một vấn đề khó khăn đối với họ. Nếu thiết kế không tốt, máy bay cảnh báo sớm sẽ vô dụng và radar chắc chắn sẽ không thể thực hiện được hiệu suất thiết kế như mong muốn.
Vấn đề nữa là Triều Tiên có thể giải quyết những khó khăn trong việc ứng dụng chiếc AWACS vào thực tế như thế nào. Máy bay cảnh báo sớm không chỉ là một radar bay trên bầu trời. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là phục vụ như một máy bay chỉ huy tác chiến trên không, chỉ huy các nhóm máy bay chiến đấu và các cụm tên lửa đất đối không để tiến hành các hoạt động đánh chặn phòng không.
Điều này đòi hỏi AWACS phải được trang bị nhiều hơn chỉ như một radar. Nó phải được trang bị đường truyền dữ liệu tốc độ cao để trao đổi thông tin với máy bay chiến đấu và mạng lưới radar mặt đất. Cần phải lắp đặt các thiết bị đầu cuối chỉ huy và điều khiển tương ứng và các hệ thống kiểm soát không chiến/đánh chặn tự động, và cũng cần xây dựng phần mềm tương ứng để hỗ trợ. Những hệ thống cao cấp hơn thậm chí còn có khả năng hiệp đồng chiến đấu.
Không thể nói Triều Tiên không có những khả năng này, nhưng xét đến việc các mẫu máy bay chủ lực của Không quân nước này vẫn là MiG-23MD và MiG-29A thì rất khó để nói rằng họ thực sự có khả năng chỉ huy tác chiến trên không tương ứng.
Một vấn đề khác là, Triều Tiên đã cải tiến từ máy bay vận tải như thế nào? Đặc biệt là vì mảng radar của chiếc AWACS rất lớn nên chắc chắn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng chuyến bay và độ ổn định của máy bay. Điều này đòi hỏi phải thử nghiệm lại máy bay vận tải Il-76 trong hầm gió, kết hợp với các chuyến bay thử nghiệm để rút ra kết luận và sau đó thực hiện các cải tiến kỹ thuật tương ứng.
Ngoài tác động đến đặc tính khí động học, việc lắp đặt mảng radar trên máy bay cảnh báo sớm còn ảnh hưởng nhiều đến trọng tâm toàn bộ máy bay, độ bền kết cấu thân...Những yếu tố này phải được cải thiện và gia cố tương ứng dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về kết cấu thân máy bay.
Vấn đề nữa là, có quá nhiều thiết bị điện tử trên máy bay cảnh báo sớm và không gian lắp đặt hẹp. Làm thế nào để đảm bảo không xảy ra vấn đề tương thích điện từ giữa nhiều hệ thống điện tử như vậy cũng là một vấn đề lớn.
Triều Tiên thực sự đã lắp ráp những hệ thống này lại với nhau, và có vẻ như họ đã thực sự giải quyết được các vấn đề như khả năng tương thích điện từ và độ tin cậy của hệ thống.